Pháp thí thắng mọi thí - Pháp hỷ thắng mọi hỷ - Ái diệt thắng mọi khổ - Niết-bàn lạc tối thượng.

>>

Bản chất thời gian với ý nghĩa giải thoát của đạo Phật

Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáo và con người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
Mục lục


Thật vậy, mọi vật sinh khởi trong thời gian, và cũng hủy diệt trong thời gian, hữu sinh tất hữu diệt là một quy luật chẳng những đúng cho vạn vật, mà còn cho tất thảy mọi chúng sinh. Sinh, lão, bệnh, tử là một tiến trình không thể nghịch đảo trong khuôn viên khắc nghiệt của thời gian tuyến tính. Thời gian vừa là người sáng tạo vừa là kẻ hủy diệt; vậy nên phải đánh giá như thế nào về vai trò của thời gian trong sự tồn tại của đời sống con người? Phải đánh giá như thế nào về cái thời gian một đi không trở lại đã khiến bao người luyến tiếc khôn nguôi về những hoài niệm vàng son quá khứ. Có lẽ cảm xúc trên đã khiến nhà văn Pháp Marcel Prous viết nên cuốn tiểu thuyết triết học nổi tiếng Đi tìm thời gian đã mất (A la recherche du temps perdu). Trong chuyện, ông đã mê hoặc độc giả bằng hình ảnh của những nàng trinh nữ trong trắng và những chiếc bánh ma - đơ - len ngon lành từ trong quá khứ ngọt ngào của ông. Thế nhưng cũng chính cái thời gian mà không ít người trong chúng ta xem là quý báu ấy, đối với W.Faulkner, Nhà văn Mỹ được giải thưởng Nobel, nó chẳng qua chỉ là thứ sản phẩm máy móc của chiếc đồng hồ mà ông từng ngấm ngầm nguyền rủa mà thôi!

          Khái niệm về sự trường cửu của cỗ máy thời gian (Kalachakra) có thể đã được nhà Phật nhấn mạnh để giáo hóa về bản tính vô thường của thế giới. Đại thể: Trong thế giới hiện tượng của chúng ta, thời gian là mạnh nhất, bởi vạn vật được tạo nên bằng sự kết hợp với nhau từ những thành phần riêng lẻ, nên sự tan rã của chúng trong dòng chảy thời gian là không sao tránh khỏi; sự sống kết thúc trong tuổi già bằng cái chết; các dinh thự đền đài dù nguy nga tráng lệ đến đâu cũng sẽ hư mục và sụp đổ; các thiên hà, các ngôi sao, các hành tinh được hình thành phát triển rồi tự hủy hoại. Thậm chí ngay cả những con người đạo hạnh khả kính đã đạt tới ngôi vị thánh ở những cõi trời tôn giáo; nhưng rồi họ cũng bị thời gian làm cho mọi sự ở đó trở nên nhàm chán, tạo thành hạt giống bất mãn, đã là nguyên nhân kéo họ ra khỏi thiên đường; để rồi lại rơi xuống vòng sinh tử thấp hèn. Vậy là cả thánh lẫn phàm đều chịu khuất phục trước thời gian, một khi còn nằm trong dòng chảy của nó. Từ những quan niệm và cảm xúc trái ngược nhau của con người về thời gian đã cho thấy ý nghĩa triết học của nó đối với đời sống con người thật vô cùng quan thiết. Bởi vậy mà chúng tôi rất tâm đắc đối với những luận điểm của thiền sư Đạo Nguyên (Dozen, 1200 – 1253) đã được nêu lên trong thiên khảo luận nổi tiếng của ông về thời gian với tên gọi Thực thể thời gian (ÊtreTemps), đại thể như sau:

          - Khảo cứu  thời gian là khảo cứu chân lý

          - Khảo cứu chân lý là khảo cứu đời người.

          - Khảo cứu đời người là khảo cứu thân phận “cái tôi” của nó.

          - Khảo cứu “cái tôi” là khảo cứu sự tồn tại của nó trong thời gian, và qua đó tìm ra ý nghĩa giải thoát tối hậu cho nó.

          Có thể vì những ý nghĩa hiện sinh nhân bản như vậy, nên từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây đã có biết bao nhà tư tưởng ra sức tìm tòi, những mong khám phá bản chất đích thực của thời gian, để phục vụ cho mục đích trên.

          Quả thật, thời gian là một thực thể khó nắm bắt, khó định nghĩa, bản thân nó là một cái gì đó vừa cụ thể vừa trừu tượng, vừa minh nhiên, vừa hàm chứa, đầy bí ẩn mung lung. Chẳng vậy mà khi được hỏi về thời gian, thánh Augustin đã nói: “Thời gian, tôi có thể biết rất rõ nó là như thế nào, song tôi lại không sao mô tả cho người khác biết được”. Chung quy, khía cạnh triết học mà con người quan tâm là thời gian có phải là một thực thể tự hữu hay không? Hoặc giả nó chỉ trừu tượng, tồn tại đơn thuần trong ý thức của con người? Trả lời những câu hỏi trên theo cả hai hướng khẳng định, hay phủ định đều không đơn giản. Bởi lẽ theo thiền sư Long Thọ, người được xem là một trong những triết gia biện chứng lỗi lạc nhất của mọi thời đại, đã xây dựng nên trường phái Trung quán luận nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa. Theo trường phái này, bất cứ một luận điểm khẳng định nào cũng tất yếu dẫn đến một luận điểm phủ định. Do đó, sự chứng minh của một định đề thường không vượt qua được một phản đề. Tuy nhiên, nghịch lý này chỉ là sản phẩm của thế giới hiện tượng, chứ không phải là bản chất bất khả tri của nhận thức. Bởi vậy, chân lý theo Long Thọ không phải là khẳng định, cũng không phải là phủ định, mà là trung điểm (MADHYA). Tóm lại, Trung quán luận bác bỏ những quan điểm phiến diện, cực đoan và siêu việt lên trên mọi cố chấp của đời thường.

          Vậy nên, theo Trung quán luận có hai loại chân lý:

          1. Chân lý tuyệt đối (Absolute reality): Chân lý này bất khả tư nghì (unthinkable), không thể nghĩ bàn được và chỉ có thể được chứng nghiệm bởi  những ai đã ngộ đạo.

          2. Chân lý tương đối (Relative reality): Thuộc thời gian nên nó còn được gọi một cách rất có ý nghĩa là chân lý thời gian, bởi những khái niệm của nó thường chỉ có giá trị trước những gì xảy ra trong khuôn khổ của thời gian tương đối thuộc thế giới hiện tượng, nên nó hoàn toàn bất lực trước chân lý tuyệt đối nằm ngoài không - thời gian.

          Như vậy, trước A. Einstein gần 2000 năm, thiền sư Long Thọ đã thấu hiểu tính tương đối của thời gian, và coi đặc điểm tuyến tính của thời gian chỉ là ảo giác nơi con người. Tuy nhiên, khái niệm về thời gian tuyến tính đã thống trị tư duy vật lý cổ điển của Newton trong suốt mấy trăm năm. Thời gian, theo quan niệm của vật lý cổ điển, là một thực thể độc lập tuyệt đối trong vũ trụ, nó đã trôi đi theo một chiều bất thuận nghịch từ vô thủy đến vô chung, nó không chịu ảnh hưởng bởi bất cứ những gì xảy ra trong vũ trụ. Mặc cho không gian bao la, mặc cho các vật thể chuyển động, các lực hút, lực đẩy tạo nên trường hấp dẫn trong đó, nó vẫn cứ liên tục, đều đều trôi đi một cách vô cảm và bất biến. Vậy nên ý nghĩ cho rằng thời gian là một thực thể tuyệt đối đã ngự trị đầu óc con người từ ngàn xưa âu cũng là chuyện tự nhiên vậy.

          Phải tới năm 1915, khi lý thuyết tương đối toàn phần của A Einstein ra đời, ông chỉ ra rằng: “Tất cả mọi chúng ta đều đã bị lừa, bản chất đích thực của thế giới không phải như chúng ta tưởng, những gì mà chúng ta vẫn cho là ổn định, là bất biến, tuyệt đối, thật ra chỉ có giá trị tương đối trong phạm vi nhỏ hẹp của đời sống hằng ngày mà thôi. Xét về căn bản, chúng chẳng có gì là bền vững và ổn định mà hoàn toàn hư ngụy. Vật chất hư ngụy, không gian hư ngụy, và thời gian, cái tưởng như tuyệt đối, cũng chỉ là hư ngụy nốt”!

          Trước hết, thời gian không phải đã có từ vô thuỷ như một thực thể độc lập tuyệt đối, mà nó chỉ bắt đầu tồn tại cùng lúc với vũ trụ được sinh khởi trong một vụ nổ lớn gọi là Big Bang. Và chính sự bùng nổ của vật chất hoang sơ khi ấy, đã khởi động chiếc đồng hồ vũ trụ vào thời điểm 10.-43 giây, từ một điểm gần như bằng “không” của vũ trụ. Để tới ngày nay vật chất ấy đã đồng hành cùng thời gian, tạo nên hàng trăm tỷ thiên hà, đạt tới kích thước bán kính vũ trụ vào khoảng 15 tỷ năm ánh sáng. Vậy là thời gian có điểm khởi đầu, và một khi đã có khởi đầu tất phải có kết thúc. Như thế, đặc điểm tuyến tính tuyệt đối, vốn được xem là vô hạn ở hai đầu mút quá khứ và tương lai của thời gian, phải bị loại trừ. Trên cơ sở đó Einstein đã chứng minh thời gian tuyến tính chỉ là ảo giác của con người và thay thế nó bằng khái niệm không thời gian bốn chiều (Continuous for dimensional space time). Theo quan niệm này, Thời gian kết hợp với không gian thành một liên thể bốn chiều thống nhất, và sự thống nhất đó còn được mở rộng sang phạm trù vật chất qua hệ thức vật lý căn bản nổi tiếng E = MC2. Hệ thức này nói với chúng ta rằng, vật chất vốn chỉ là năng lượng ẩn trong khối lượng, và nó là dạng thức tồn tại chủ yếu trong thế giới hiện tượng. Chính sự tồn tại và vận động của nó đã tạo nên không gian và thời gian, hay chính xác hơn là tạo nên những đặc tính của không gian và thời gian. Như vậy, không gian định hình bởi vật, và thời gian định tính bởi sự liên kết mật thiết với vật chất và không gian, theo nghĩa tương tác nhân duyên, tức là sự hiện hữu của vật này là điều kiện tồn tại cho vật kia, nếu vật này không còn thì vật kia cũng biến mất. Những điều tưởng như trừu tượng và khó hiểu nói trên, đã được Einstein minh định rất rõ trong một câu trả lời thật súc tích về lý thuyết tương đối của ông: “Trước đây người ta thường cho rằng; nếu bỗng dưng toàn thể vật chất vũ trụ biến mất thì vẫn còn lại không gian và thời gian. Điều này không đúng với lý thuyết tương đối, bởi nó đã chứng minh rằng; nếu vật chất trong vũ trụ không còn thì không gian và thời gian cũng biến mất”. Đúng như lời dạy kinh điển của giáo lý đạo Phật: “Không làm gì có cái gọi là thực thể tuyệt đối tự hữu”.

         Sự đồng nhất đã khiến các thực thể vật chất, không gian và thời gian dung thông nhau, nên có những đặc tính của nhau. Do đó, về mặt lý thuyết, thời gian trong thuyết tương đối có thể tiến về tương lai hoặc lui về quá khứ, hệt như trong không gian ta có thể tiến lên phía trước hoặc lùi lại phía sau vậy. Tuy nhiên, điều này chỉ được quan sát thấy trong thế giới vi mô, biểu hiện qua sự phân rã của các hạt cơ bản mà sự hợp tan, tan hợp của chúng đúng với cả hai chiều thuận nghịch. Lại nữa, thời gian cũng không phải trôi đi đều đều bất biến, mà sự trôi nhanh hay chậm là tùy thuộc vào sự vận động và mật độ vật chất quanh chúng tạo ra.

          Tính đồng nhất của thế giới hiện tượng còn bao gồm cả con người chúng ta, biểu hiện trong sự nhận thức thế giới đó. Giáo sư Hubert Reever giảng dạy khoa vũ trụ luận ở trường Đại học Paris đã nói rất hay rằng: “Phải chăng con người chúng ta nhận thức được vũ trụ sinh ra từ vụ nổ Big Bang là vì cơ thể của chúng ta được cấu tạo bởi những nguyên tử của vụ nổ đó, nên vẫn còn mang theo những ký ức về nó?”. Giả định đầy lãng mạn đó của ông không phải không có những nhân tố hiện thực. Thật vậy, theo giáo lý đạo Phật con người chúng ta đặc trưng bởi cái cơ thể tứ đại, gồm đất, nước, gió, lửa vốn có cấu trúc từ những hạt vật chất cơ bản tạo thành vũ trụ. Nên những đặc tính của không gian ba chiều và thời gian một chiều đã nằm ngay trong những giác quan nhận thức của chúng ta về thế giới đó. Nói một cách dễ hiểu hơn, sở dĩ chúng ta nhận thức được các vật thể có ba chiều trong thế giới bởi chúng ta là những sinh vật ba chiều. Với thời gian một chiều cũng vậy, mặc dù Einstein đã chứng minh nó chỉ là ảo giác nơi con người, song, không một ai trong chúng ta có thể khắc phục được cái cảm giác về mũi tên thời gian luôn chuyển động từ quá khứ đến tương lai. Điều này cho thấy cơ chế thời gian một chiều dường như đã được lập trình trong từng tế bào của mỗi chúng ta là để đi từ chiếc nôi đến nấm mồ chứ không phải theo chiều ngược lại. Tóm lại, chúng ta nhận thức được thế giới hiện tượng đúng như quan niệm truyền thống, là do sự tương đồng của chính bản thân chúng ta với những thành phần cơ bản của thế giới ấy. Khái niệm đồng nhất như vậy đã được mở rộng sang lĩnh vực nhận thức thuộc phạm trù tinh thần của con người. Điều này rất có ý nghĩa, bởi nó xóa nhòa cái ranh giới giữa khách thể và chủ thể mang tính nhị nguyên, mà theo nhận định bất hủ của đạo sư Tây Tạng nổi tiếng Milarepa thì đó chính là: “Hai ngụy thuyết căn bản đã giam hãm con người trong vỏ bọc vô minh”.

          Tuy nhiên, tính đồng nhất của thế giới hiện tượng một mặt đã tạo nên chỉnh thể của nó, mặt khác, đó cũng chính là sợi dây ràng buộc vô cùng khắc nghiệt đối với mỗi cá thể bất kỳ, trong một thế giới bị điều kiện hóa chặt chẽ bởi những đặc trưng của nó mà đạo Phật gọi là hữu ngại. Trong thế giới đó con người bị trở ngại, bị hạn chế, bị ngăn cách bởi không gian, bởi thời gian và bởi các sự vật khác mà nguyên nhân chính là do sự đồng nhất của bản thân con người với thế giới đó! Ngẫm lời Phật dạy thật chí lý “Hữu thân hữu khổ”, hoặc của một Lão Tử đầy minh triết: “Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả vị ngô hữu thân”(Ta sở dĩ còn khổ vì hoạn nạn cũng bởi do có cái thân này).

          Trong muôn ngàn trở ngại của thế giới hữu ngại làm nên nỗi khổ đời người, chung quy thời gian là nỗi khổ đã dằn vặt, ám ảnh con người nhiều nhất. Bởi lẽ mỗi con người là một hệ thống khép kín, nên nó chịu sự chi phối chặt chẽ của một định luật khoa học rất nổi tiếng, có liên quan đến thời gian, định luật này đã ảnh hưởng sâu sắc tới triết học và xã hội học đương thời. Đó là định luật thứ hai của nhiệt động học (Law of entropy) thường được phát biểu như sau: “Trong những hệ thống khép kín thì vô trật tự tức là sự hỗn độn của hệ luôn gia tăng theo thời gian. Bởi vậy mọi vật luôn tiến triển theo chiều hướng xấu đi”. Chẳng hạn, một chiếc cốc lành ở trên bàn biểu thị cho trạng thái trật tự cao, một chiếc cốc vỡ trên sàn nhà biểu thị trạng thái hỗn độn. Con người chúng ta chỉ có thể đi từ chiếc cốc lành ở trên bàn trong quá khứ, đến chiếc cốc vỡ dưới sàn nhà trong tương lai, chứ không thể đi theo chiều ngược lại.

          Có thể nói, sự chuyển động của mũi tên nhiệt động học theo hướng gia tăng sự hỗn độn trong thời gian, đã minh họa cho lời dạy đúng đắn của giáo lý đạo Phật về tính chất vô thường của chúng sinh và vạn vật trong thế gian. Thật vậy, mỗi chúng  sinh chỉ là một hệ thống nghiệp báo được khép kín trong chu trình sinh, lão, bệnh, tử; nên toàn thể vạn vật trong vũ trụ chỉ là một hệ thống nghiệp báo cộng đồng, cho dù vô cùng rộng lớn, vô cùng dài lâu, cũng vẫn phải khép kín trong chu trình thành, trụ, hoại, không của nó. Hiển nhiên, ngày nay chúng ta đều đã biết vũ trụ mà chúng ta đang sống được sinh khởi cùng với thời gian cách đây khoảng mười lăm tỷ năm trong một vụ nổ lớn, và tất yếu sẽ đứng trước hai cái chết đang chờ đợi nó trong tương lai. Hoặc chết bởi sự thiêu hủy của một vũ trụ co về trạng thái nhiệt độ ban đầu khủng khiếp của nó, hoặc chết do sự giá lạnh của một vũ trụ dãn nở cho đến hết năng lượng. Bề nào thì sự kết thúc của vũ trụ cũng sẽ khiến vật chất của nó bị phân rã và tan vào hư không, do đó sẽ kéo theo sự kết thúc của thời gian. Trạng thái này của vũ trụ hoàn toàn giống với thời kỳ gọi là “không kiếp” được mô tả trong nhiều cuốn kinh của đạo Phật.

          Một khi ta nhận thức được tính hữu hạn của thời gian là sinh khởi và kết thúc cùng vũ trụ tức thị đặc điểm tuyến tính giả hiệu của nó biến mất, mà thay vì chỉ còn một thời gian cầu tính, tròn trịa, sản phẩm của nghiệp báo luân hồi, được khép kín bằng chu trình sinh diệt thế gian. Từ khái niệm tuyến tính (linear) kéo dài vô hạn, đến khái niệm cầu tính (spheric) khép kín hữu hạn, thời gian đã thay đổi bản chất của nó, biểu hiện ở sự gắn liền của nó cùng với chu trình sinh diệt của cảnh giới mang nghiệp báo luân hồi. Nên về thực chất, thời gian là đồng nhất với nghiệp. Nhận thức này sẽ khiến ta ngộ ra rằng: không hề có sự trôi đi của một thời gian đích thực nào cả! mà chỉ có chu trình sinh diệt của những thực thể mang nghiệp báo luân hồi (bao gồm vạn vật vô tri và chúng sinh hữu tình), được lập trình theo trật tự nhân quả, đã tạo ra cái ảo giác về sự trôi đi theo một chiều của cái gọi là thời gian tuyến tính. Hoặc nói một cách khác chặt chẽ hơn, khái niệm thời gian tuyến tính chỉ là sản phẩm được sinh ra từ ý niệm nhân quả mà thôi. Tình hình cũng giống như khi ta đang đi trên một con tàu vậy. Sự chuyển động của ta theo con tàu luôn tạo ra cái ảo giác về sự trôi đi của cảnh vật hai bên đường. Khi nào con tàu dừng lại, cảnh vật sẽ dừng trôi. Điều này hoàn toàn đúng cho những chủ thể đang hành trình trên con tàu nghiệp báo của chu trình sinh diệt. Chính là sự chuyển động theo tiến trình nhân quả của con tàu đã tạo nên cái ảo giác của sự trôi đi của thời gian. Một khi con tàu dừng lại, xem như các chủ thể đã đoạn nghiệp, nên thấy thời gian lập tức ngừng trôi.

          Các nhà thiền học nổi tiếng của đạo Phật hiểu rõ điều này không phải bằng suy luận thuần túy, mà bằng sự trải nghiệm qua thiền định của chính bản thân họ. Ta hãy nghe thiền sư Đạo Nguyên nói về bản chất bất động nói trên của thời gian:

          “Hầu hết mọi người tin rằng thời gian đã trôi qua; trong thực tế nó ở đâu vẫn nguyên đó. Cái ý niệm về sự trôi qua này, có thể gọi là thời gian, nhưng đó là một ý niệm không đúng, bởi vì người ta chỉ coi như nó đi qua, mà không hiểu được rằng, nó ở chỗ nào vẫn nguyên ở chỗ ấy”. (Nguyên văn trong tiếng Anh: “It is believed by most that time passes; in actual fact, it stays where it is. This idea of pasing may be called time, but it is an incorrect idea for since one sees it as passing, one connot understand that it stays where it is”).

          Ý tưởng về sự bất động của thời gian nói trên có vẻ là một nghịch lý đối với chúng ta, nhưng nó lại rất tương đồng với sự suy luận của các nhà vật lý hiện đại về bản chất động và bất động của thời gian, biểu hiện qua sự khác nhau của thời gian tâm lý và thời gian vật lý. Thời gian tâm lý là thời gian trôi theo đời người, mà tất cả mọi chúng ta đều phải gánh chịu. Hiển nhiên sự phân chia giữa quá khứ, hiện tại và tương lai đã chi phối đời sống của chúng ta, làm nên những số phận khác nhau và chính nó đã tạo nên nền tảng ngôn ngữ của con người với các động từ được phân chia rành rẽ ở ba thời quá khứ, hiện tại và tương lai. Như vậy, xem như thời gian có chuyển động, song, khi mô tả cụ thể sự chuyển động của nó lại không phù hợp với ngôn ngữ của vật lý học hiện đại. Chẳng hạn, nếu thời gian có chuyển động thì vận tốc của nó bằng bao nhiêu? Một câu hỏi thật vô nghĩa! Mặt khác, nếu cho rằng chỉ có thời điểm hiện tại là thực tại thời gian duy nhất. Điều này lại không tương thích với thời gian của lý thuyết tương đối mà Einstein đã nói rõ rằng: “Quá khứ của người này có thể là hiện tại của người khác và thậm chí còn là tương lai của người khác nữa!”

          Vậy, với thời gian vật lý, không còn phân biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Tất cả mọi thời điểm là bình đẳng như nhau, vì khái niệm phân chia ba thời bị loại bỏ nên thời gian ở đây thực chất đúng như sự mô tả của thiền sư Đạo Nguyên là nó ở chỗ nào vẫn nguyên ở chỗ ấy. Đó chính là thời gian trung đạo của thiền sư Long Thọ: Xem hiện tiền bất động là tuyệt đối, viên dung tất cả quá khứ lẫn vị lai. Các nhà vật lý lượng tử hiện đại cũng cho rằng, trước Big Bang, thời gian chưa trôi và một giây tương ứng với vĩnh hằng. Đúng như tinh thần Hoa Nghiêm: Trong một sát na bao gồm toàn thể thời gian từ vô thuỷ đến vô chung.

          Tuy nhiên, các nhà vật lý vẫn chưa hiểu do đâu có sự khác biệt giữa thời gian tâm lý và thời gian vật lý. Theo thiển ý của chúng tôi, vấn đề sẽ khá rõ nếu ta gọi thời gian tâm lý trôi theo dòng sinh diệt thế gian là thời gian nghiệp báo, và gọi trạng thái không trôi của thời gian vật lý là thời gian phi nghiệp. Bởi như chúng tôi đã trình bày ở trên, thời gian là đồng nhất với nghiệp, nên chuyển động tuyến tính của nó chỉ là ảo giác của con người còn mang nghiệp báo trong thế giới nhân quả (điều này đã được thiền sư Long Thọ chỉ rõ) và một khi không còn nghiệp báo, chủ thể sẽ chứng nghiệm sự tĩnh tại hoàn toàn của trạng thái phi thời gian tức thời gian phi nghiệp vậy. Chính sự chứng nghiệm phi thời gian này nên thiền sư Huệ Khả đã viết: “Ba thuở cầu tâm, tâm chẳng có” (“Tam thế cầu tâm, tâm bất hữu”). Ba thuở và tâm nói trên chính là: tâm quá khứ, tâm hiện tại và tâm vị lai đều chỉ là “không” khi hành giả ngộ đạo. Thế nên sinh tử cũng chỉ là “không” nốt, mà tròn đầy trước mắt chỉ còn lại cái hiện tiền.  Hãy nghĩ xem: ngộ đạo là thức tỉnh, mà thức tỉnh thì chỉ có thể thức tỉnh trên cái hiện tiền. Nghĩa là thức tỉnh khỏi những mộng lớn, mộng nhỏ thuộc dĩ vãng và vị lai trong cái hư ảo của thời gian kiếp người. Vậy nên ngồi thiền là chuyển tất cả chú tâm vào cái hiện tiền để cho trí huệ quán chiếu và bao trùm tất cả trong một cái thấy toàn diện, nhất như.

          Phải chăng, vì thấu hiểu điều này, nên các truyền thống tôn giáo Đông phương mà biểu hiện là Phật giáo và Ấn giáo luôn chỉ dẫn cho tín đồ của họ những phương cách để vượt lên kinh nghiệm thông thường về thời gian, và tự giải thoát khỏi vòng nhân quả, khỏi nghiệp báo luân hồi. Bởi vậy người ta thường nói rằng mục đích của Huyền học Đông phương là sự giải thoát khỏi thời gian. Vậy giải thoát khỏi thời gian chủ thể sẽ đi về đâu? Theo quan niệm Phật giáo, chủ thể sau khi tu tập đã dừng nghiệp, tức thị trở về trạng thái chân tâm, hoàn toàn vô ngã, nên nó đã siêu vượt lên mọi cảnh giới còn mang nghiệp báo, để đồng nhất hóa với cái “không” bản thể của cảnh giới phi thời gian tức thời gian phi nghiệp vậy. Đây chính là cảnh giới của các vị Phật và những chúng sinh tu hành đắc đạo, chứng được a la hán quả, nên ở đó không còn phân biệt chủ thể, khách thể mà hoàn toàn bình đẳng, tự tại bất biến và thường định trong cái tuyệt đối tĩnh lặng của trạng thái phi thời gian. Vậy nên các chủ thể một khi đã đồng nhất với nó, sẽ không còn sinh diệt, không còn nhân quả, không còn sự phân chia quá khứ hay vị lai. Do đó, không còn khái niệm trước sau. Tóm lại, mọi rào cản hữu ngại đã bị gỡ bỏ, nên tất cả đồng hiện ra trong một cái thấy toàn diện, nhất như của trí tuệ vô ngại trong một sát na (lượng tử thời gian) hiện tiền. Đúng như đức Phật khi thành đạo, ngài đã thấy lại vô lượng kiếp quá khứ của bản thân và vô lượng kiếp vị lai của chúng sinh khốn cùng đã hiện ra trong thời khắc hiện tiền này. Đó là cái hiện tiền vĩnh cửu (eternal now) dung nạp cả quá khứ lẫn vị lai trên mặt bằng của nó, mà thiền sư Suzuki đã mô tả như sau: “Trong cõi giới tâm linh này, không hề có sự phân chia thời gian thành quá khứ, hiện tại hay tương lai; bởi vì thời gian đã tự thu vào chỉ trong một khoảnh khắc hiện tại mà thôi”.(Nguyên văn trong tiếng Anh: “In this spiritual world, there are no time divisions such as the past, present and future; for they have contracted them-selves into a single moment of the present”) Và cái hiện tiền vĩnh cửu nói trên chính là sát na thường trụ mà Lục tổ Huệ Năng gọi là cái hiện tại tuyệt đối, không bị hạn chế bởi ranh giới nào, nên nó chính là niềm vui bất diệt. Nói một cách khác, sát na ấy là cảnh giới như thị của hàng đạt đạo đã chứng nghiệm cái lý vô sinh của nhà Phật.

          Tuy nhiên, đạo Phật không chỉ quan tâm tới mục đích xuất thế siêu phàm mà quên đi nỗi bức xúc của chúng sinh trong thời gian. Bởi chúng sinh hiện hữu ở thế gian, nên tồn tại theo thời gian, do đó, có thời gian từ khi tạo nghiệp cho đến lúc chịu nghiệp báo. Chừng nào còn nghiệp thì thời gian còn theo nó như hình với bóng. Hiểu rõ thực tế này nên các thiền gia đạo Phật luôn hướng dẫn chúng sinh những phương cách để thích nghi và vượt lên thời gian hiện tồn của chủ thể, bởi xem nó là người bạn đồng hành của những ai còn mang nghiệp báo luân hồi.

          Chấp nhận thực tế này thông qua việc hành thiền sẽ giúp chúng ta chung sống một cách dễ chịu với thời gian, qua đó tìm thấy cảm giác tự do và cảm xúc sáng tạo của con người nhập thế. Hơn thế nữa, việc hành thiền sẽ giúp ta tái lập cơ chế bản nguyên của tự tính con người vốn là tự tại và thường trụ bên ngoài thời gian. Vì vậy, nó chính là phương tiện để đạt tới sự giác ngộ, để thấy rõ “cái tôi” thực sự trong một thực tiễn thời gian duy nhất của một hiện tiền vĩnh cửu. Như vậy, là ta đã siêu việt thời gian trong tư cách của con người xuất thế. Khắc chế được cái cảm giác dằn vặt đau đớn về thời gian luôn lẽo đẽo bám theo kiếp người.

          Sau hết, để cho bài viết còn sơ lược này được rõ nghĩa hơn, chúng tôi xin kể thêm rằng, cách đây đã nhiều năm có một nữ tác giả Nhật Bản tên là Yachiyo Kato vốn là một Phật tử nên bà đã viết một vở kịch mà nhân vật trong đó là một người đàn ông, do nỗ lực tu tập nên đã hoàn toàn giải thoát khỏi sự ràng buộc của cơ thể, và đạt tới trạng thái siêu thoát của một sinh vật tâm linh thuần túy. Tên của anh ta là Emiton đọc ngược lại theo tiếng Anh là “Notime” có nghĩa là “phi thời gian”. Từ vở kịch độc đáo trên, dường như tác giả muốn thông điệp với chúng ta rằng ý nghĩa giải thoát đích thực của con người là sự giải thoát khỏi thời gian. Và muốn vậy, chúng ta hãy đảo ngược những quan niệm cố hữu về thế giới hiện tượng do nghiệp lực tạo nên ở mỗi người, cũng giống như sự đảo ngược cái tên Emiton trong vở kịch thành Notime. Như vậy, chân lý giải thoát phi thời gian sẽ được hiển lộ. (Đặc san Suối Nguồn)

Đại Tạng Kinh Việt Nam

Tháng Năm