Pháp thí thắng mọi thí - Pháp hỷ thắng mọi hỷ - Ái diệt thắng mọi khổ - Niết-bàn lạc tối thượng.

>>

Khoa học và Phật giáo

Đạo Phật nói rằng những gì con người khám phá ra ở vũ trụ tương đối và vô thường dù đó là những định luật khoa học, đều là những chân lý tương đối và quy ước, vì đối tượng của chúng là những sự vật tương đối và vô thường. Khi mọi nhu cầu của cuộc sống làm người đều được đáp ứng bởi khoa học và kỹ thuật, bởi các ngành kinh tế, pháp luật, xã hội... thì đạo Phật vẫn tồn tại và phát triển, bởi vì đạo Phật đáp ứng được cho con người nhu cầu tối hậu (nhu cầu thứ năm theo hình dung của Abraham Maslow): chân lý tuyệt đối và tối hậu.
Mục lục

Khoa học

Những mô hình của con người về thiên nhiên đều có đặc tính toán học. Có thể nói, nếu không có toán học thì không có vật lý học vì không có gì để chứng minh và kết luận vật lý học thành những công thức.

Nhưng ở thế kỷ XX, chúng ta chạm phải những nghi ngờ về quyền năng của toán học.

Các định lý bất toàn của Kurt Godel xuất bản năm 1931 có thể tóm tắt là: không một hệ thống toán học nào là tự đủ với chính nó, bởi vì trong đó có những định đề không thể chứng minh được trong hệ thống ấy. Muốn chứng minh được những định đề ấy phải ra ngoài hệ thống ấy, phải nhờ một hệ thống khác. Như thế, hệ thống này phải nhờ hệ thống kia và như vậy cho đến vô tận.

Alan Turing thường được xem là cha đẻ của ngành máy tính, cho rằng không có thuật toán nào để giải quyết các Bài toán dừng. Điều này đã được chứng minh trong các máy vi tính dầu hiện đại nhất, thế nào nó cũng có lúc dừng, và người ta không biết lúc nào nó sẽ dừng.

Chúng ta hãy lấy Bài toán trò chơi Ghép hình khỉ trong sách Điều Bất Khả - Giới hạn của khoa học và Khoa học của giới hạn của John D. Barrow, 1998; bản tiếng Việt 2011, Nxb Tri Thức.

“Trò chơi này là khối Rubik cho người nghèo. Bộ trò chơi có 9 tấm thẻ vuông, mỗi thẻ in bốn nửa hình con khỉ có 4 màu khác nhau. Yêu cầu của trò chơi là phải sắp 9 tấm thẻ sao cho hình các con khỉ phải khớp với nhau và phải cùng màu. Để giải đáp, một thuật toán máy tính sẽ phải làm việc qua số phương án bằng 9x8x7x6x5x4x3x2x1=362.880. Ta gọi trị số này là “giai thừa 9”, được biểu diễn bằng kí hiệu “9!”. Trị số của giai thừa tăng lên rất nhanh theo số gốc. Trị số của 36!(tức là số gốc tăng lên chỉ 4 lần) gồm có 41 con số, và một máy điện toán chạy qua 36! cách sắp xếp với tốc độ một triệu cách sắp xếp mỗi giây sẽ phải mất 11 tỉ tỉ tỉ năm mới chạy xong. Đây chắc chắn là điều bất khả trên thực tế”.

Một bài toán của Christian Goldbach nêu ra vào năm 1742 là: “Một số chẵn là tổng của hai số nguyên tố”, đến nay vẫn chưa chứng minh được 8 = 3 + 5. Trực quan thì dễ hiểu mà chứng minh thì gần 300 năm rồi thế giới toán học vẫn chưa chứng minh được.

Dĩ nhiên toán học vẫn còn mãi tiến bộ, nhưng giới hạn của toán học có lẽ vẫn sẽ được mở rộng mãi không cùng.

Về vật lý học, trong những thập niên đầu của thế kỷ XX, hai nền vật lý học, Thuyết tương đối Hẹp và Rộng của Einstein và Vật lý Lượng tử đã làm thay đổi thế giới vật lý học. Ở đây chỉ nói qua về vật lý lượng tử:

- Hằng số Max Planck khiến chúng ta không thể biết ở trước 10-43 giây của vụ nổ Big Bang thì vũ trụ là thế nào, cái gì tạo ra vũ trụ. Giới hạn của bức tường Planck là một giới hạn của vật lý học hiện đại.

- Theo định lý Bất định của Heisenberg (1927), nếu ta biết vận tốc của một hạt thì sẽ không biết vị trí của nó, và ngược lại, biết vị trí của nó thì không biết vận tốc của nó.

- Một nguyên lý căn bản của vật lý lượng tử là Nguyên lý Bổ sung của Niels Bohr: Trong thế giới sóng - hạt của ánh sáng và vật chất, điều ta thấy phụ thuộc vào cách ta quan sát, nghĩa là chủ thể quan sát ảnh hưởng vào đối tượng được quan sát. Nếu chúng ta quan sát theo dạng sóng, đối tượng sẽ thành sóng; nếu chúng ta quan sát theo dạng hạt nó sẽ thành hạt.

Từ đó chúng ta có những khái niệm bất định xứ (non-local), sự mờ nhòe lượng tử, nguyên lý chồng chập, tính ngẫu nhiên, tính bất khả phân và đồng thời... đến độ nhiều nhà khoa học dùng chữ “lãng mạn” để chỉ vật lý lượng tử.

Hàng sau cùng: Auguste Piccard, Émile Henriot, Paul Ehrenfest, Édouard Herzen, Théophile de Donder, Erwin Schrödinger, JE Verschaffelt, Wolfgang Pauli, Werner Heisenberg, Ralph Fowler, Léon Brillouin.
Hàng giữa: Peter Debye, Martin Knudsen, William Lawrence Bragg, Hendrik Anthony Kramers, Paul Dirac, Arthur Compton, Louis de Broglie, Max Born, Niels Bohr. 
Hàng đầu: Irving Langmuir, Max Planck, Marie Curie, Hendrik Lorentz, Albert Einstein, Paul Langevin, Charles-Eugène Guye, CTR Wilson, Owen Richardson. Ảnh: internet.

Cả thế kỷ nay các nhà vật lý lý thuyết cố công tìm ra một lý thuyết hợp nhất được Vật lý Tương đối của Einstein và Vật lý Lượng tử vì cả hai đều đã đúng trên mặt thực nghiệm. Lý thuyết được mơ ước đó, được đặt tên là Lý thuyết về tất cả mọi sự (Theorie of Everything), nghĩa là một Lý thuyết Thống nhất toàn bộ vũ trụ.

Các nhà vật lý đã sáng tạo ra Lý thuyết Dây với 11 chiều, nhưng hầu như không thể thí nghiệm được là đúng hay sai vì điều kiện của thế giới và vũ trụ của chúng ta không cho phép.

Nhà Vật lý Stephen Hawking. Ảnh : www.nytimes.com

Mới đây nhà vật lý nổi tiếng nhất trong hậu bán thế kỷ XX, Stephen Hawking đã viết trong cuốn Bản thiết kế vĩ đại (2010) cùng với Leonard Mlodinow rằng: “Sự tìm kiếm để khám phá một lý thuyết cuối cùng có thể chẳng bao giờ dẫn đến một bộ thống nhất những phương trình. Mỗi lý thuyết khoa học đem đến một kiểu mẫu riêng của nó về thực tại và điều đó khiến cho khoa học không nói được cái thực tại nào là thực sự và tối hậu”.

Tuy nhiên chúng ta thấy khoa học vẫn tiến bộ, vẫn khám phá ra nhiều cái mới, nhất là ở mặt kỹ thuật để sử dụng trên ngôi nhà trái đất này. Nhưng Lý thuyết về Tất cả Mọi sự thì có lẽ chẳng bao giờ với tới, bởi vì những giới hạn nằm trong chính mọi ngành nghiên cứu và cũng nằm trong ý thức con người. Có lẽ, như Định lý Bất toàn của Godel, chúng ta ở trong hệ thống vũ trụ này nên chúng ta không thể nào hiểu biết hết hệ thống vũ trụ này. Muốn hiểu biết hết vũ trụ này chúng ta phải ra ngoài hệ thống vũ trụ này để qua một hệ thống vũ trụ khác. Đây là điều không thể.

Nếu như phương trình chuyển hóa khối lượng thành năng lượng E=mc2 rất kỳ diệu và đơn giản của Einstein đã không thể chuyển hóa khổ đau và phiền não của con người thì, chúng ta hãy tưởng tượng, dù cho khám phá ra phương trình Lý thuyết về Tất cả mọi sự, việc trì tụng nó như trì tụng thần chú cũng chẳng thể xóa đi những phiền não, khổ đau của mỗi cá nhân chúng ta. Chẳng có thần dược nào tịnh hóa được những phiền não khổ đau của chúng ta. Nếu làm “quên” được, nó sẽ làm cho chúng ta chết, mà cái chết chắc gì đã xóa hết được. Và chúng ta có làm gì thì vũ trụ này cũng có ngày chết, vì nó đã được sinh ra. Cũng phải nói thêm rằng khoa học kỹ thuật đã được ứng dụng trong một nền kinh tế nhắm vào tiêu thụ nên con người hiện nay dễ lạc vào một thế giới vật chất mà quên đi thân phận sống chết của mình. Câu hỏi “Tôi là cái gì? Tôi đến từ đâu? Chết, tôi đi về đâu?” của Tây phương từ thời bình minh Hy Lạp vẫn chưa được khoa học giải đáp.

Đạo Phật nói rằng những gì con người khám phá ra ở vũ trụ tương đối và vô thường dù đó là những định luật khoa học, đều là những chân lý tương đối và quy ước, vì đối tượng của chúng là những sự vật tương đối và vô thường. Khi mọi nhu cầu của cuộc sống làm người đều được đáp ứng bởi khoa học và kỹ thuật, bởi các ngành kinh tế, pháp luật, xã hội... thì đạo Phật vẫn tồn tại và phát triển, bởi vì đạo Phật đáp ứng được cho con người nhu cầu tối hậu (nhu cầu thứ năm theo hình dung của Abraham Maslow): chân lý tuyệt đối và tối hậu.
 

Đạo Phật

Chân lý tuyệt đối và tối hậu theo đạo Phật là gì? Làm sao đạt được nó?

Sau đây chúng ta trích vài đoạn trong kinh Lăng-già để tìm hiểu phần nào con đường Phật giáo đi đến chân lý tuyệt đối và tối hậu.

Edmund Husserl (1859-1938), người khai sinh ra Hiện tượng luận (Phenomenology) đã nói: “Ý thức là ý thức về cái gì”. Cũng phải nói thêm, Hiện tượng luận có tham vọng là tìm ra hiện tượng thuần túy và chủ thể thuần túy, chưa bị biến chất bởi những ý tưởng loạn động của con người, nên đã đặt ra nhiều phương pháp như “để vào trong dấu ngoặc” và “giảm trừ hiện tượng luận”... Nhưng, như chúng ta đã thấy, Hiện tượng luận không mấy thành công, và trở thành một phong trào yếu dần theo thời gian.

Ý thức bao giờ cũng hoạt động trong sự chia cách chủ thể và đối tượng. Ý thức chính là sự chia cách ấy nên ý thức không bao giờ lấp đầy được hố sâu ngăn cách chủ thể và đối tượng. Với kinh Lăng-già, sự chia cách ấy không chỉ ở ý thức, mà còn ở năm thức giác quan, thức chấp ngã (ý) và ở trong Tạng thức A-lại-da (tâm), nghĩa là trong toàn bộ tám thức.

Thế nên, kinh nói: “Vượt khỏi và chuyển hóa tâm, ý, ý thức”. Vượt khỏi và chuyển hóa tâm, ý, ý thức nghĩa là vượt khỏi và chuyển hóa sự phân biệt chia cách của tâm thức.

“Phật dạy: Đại Huệ! Ta rõ các pháp chỉ do tâm mà hiện, không có chủ thể nắm bắt và đối tượng nắm bắt, nên nói cái này có nên cái kia có. Nếu không biết các hiện tượng chỉ do tâm mà hiện, vọng suy tính có chủ thể nắm bắt và đối tượng được nắm bắt, chấp trước cảnh ngoài hoặc có hoặc không, đó là có lỗi, chẳng phải chỗ ta nói”.

Người thực hành không chỉ tìm cách xóa bỏ sự phân chia chủ thể - đối tượng chỉ bằng ý thức một cách trí thức, mà bằng toàn bộ thân tâm, tức là bằng Giới Định Huệ.

Sở dĩ con người không tìm được an vui vì nó đã chia cách với những con người và với thế giới, vũ trụ. Có sự chia cách gây ra khổ đau này là do chấp ngã và chấp pháp (những hiện tượng). Cho nên để hoàn nguyên lại một thế giới như thật, không bị chia cách, thì phải xóa bỏ sự chấp ngã và chấp pháp giả tạo và hư vọng này đi. Cái thấy thực sự (chánh kiến) là thấy “hai vô ngã”: con người vô ngã (nhân) và những hiện tượng (pháp) vô ngã. Chính cái thấy sự vô ngã, vô tự tánh của “nhân và pháp”, phá tan sự chấp ngã và chấp pháp để trả lại cho con người và thế giới sự thanh tịnh bổn nguyên chưa hề bị chia cắt của nó.

“Lợi lạc của Pháp là gì? Là rõ tất cả các hiện tượng là tâm, thấy hai vô ngã, chẳng nắm giữ tướng, không có phân biệt, khéo rõ các địa, lìa tâm, ý, ý thức. Tất cả chư Phật nơi tất cả các hiện tượng được tự tại, đó gọi là sự lợi lạc của Pháp, vì không sa vào tất cả các kiến nhị biên phân biệt hý luận đoạn thường”.

Thấy được “hai vô ngã” là xóa được sự chấp ngã và chấp pháp, lấp đầy được hố sâu ngăn cách giả tạo và hư vọng giữa chủ thể và đối tượng, giữa cái tôi và tất cả mọi sự và giữa mọi sự với nhau.

Vượt khỏi thức để chuyển hóa chúng là thế nào? Kinh cho chúng ta cái hiểu biết về thức và trí:

“Trí là biết được bất sanh bất diệt. Sanh diệt là thức, chẳng sanh diệt là trí. Sa vào tướng và vô tướng do lấy các thứ tướng hữu vô làm nhân là thức. Lìa tướng và vô tướng do lìa nhân hữu vô là trí. Có tích tập tướng là thức, không tích tập tướng là trí. Có chuyển động, có sanh là thức. Không chuyển động, không sanh là trí”.

Đây là sự chuyển thức thành trí. Thành tựu sự chuyển thức thành trí này thì:

- Tạng thức A-lại-da bị nhiễm ô bởi phân biệt chia cắt và phiền não vi tế chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí; Trí rộng lớn bao la sáng soi như tấm gương.

- Thức thứ bảy chấp ngã chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí; Trí thấy tất cả mọi hiện tượng đều bình đẳng, nghĩa là cùng một bản tánh.

- Ý thức phân biệt chuyển thành Diệu Quan Sát Trí; Trí thấy sự khác biệt của các hiện tượng nhưng đồng thời vẫn thấy chúng bình đẳng trong bản tánh.

- Năm thức giác quan chuyển thành Thành Sở Tác Trí; Trí làm việc trong thế giới vật chất nhưng vẫn tự do, tự tại vì không còn bị nhiễm ô bởi thức phân biệt sanh ra phiền não.

Đây là thực tại tuyệt đối và tối hậu được gọi là Nhất Chân Pháp Giới. Đây cũng là chân lý tuyệt đối và tối hậu theo kinh Lăng-già.


Theo Văn hoá Phật giáo số 334 ngày 01-12-2019

Đại Tạng Kinh Việt Nam

Tháng Năm