Trong kinh Vô tránh phân biệt (Aranavibhanga Sutta) thuộc tuyển tập Trung bộ, Đức Phật đưa ra một lời khuyên tu Thiền có nội dung như sau: “Nên biết phán xét về lạc; sau khi biết phán xét về lạc, nên chú tâm vào nội lạc” (Sukhavinicchayam jannà sukhavinicchayam natvà ajjhattam sukham anuyunjeyya).
Đức Phật khuyên mọi người tu Thiền, vì Thiền là hạnh phúc, mang lại hạnh phúc cho con người, một loại hạnh phúc đặc biệt lợi ích, khác với kinh nghiệm hạnh phúc thường tình của thế gian. Bậc Giác ngộ giải thích lý do vì sao Ngài khuyên mọi người nên tu Thiền:
“Khi được nói đến “Nên biết phán xét về lạc; sau khi biết pháp xét về lạc, nên chú tâm vào nội lạc”, do duyên gì được nói đến như vậy?
Này các Tỷ-kheo, có năm dục trưởng dưỡng này. Thế nào là năm? Các sắc pháp do mắt nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, liên hệ đến dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức... các hương do mũi nhận thức... các vị do lưỡi nhận thức... các xúc do thân cảm giác, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, như vậy là năm dục trưởng dưỡng. Này các Tỷ-kheo, do duyên năm dục trưởng dưỡng này khởi lên lạc và hỷ, như vậy gọi là dục lạc, uế lạc, phàm phu lạc, phi Thánh lạc. Ta nói loại lạc này không nên thực hành, không nên tu tập, không nên làm cho sung mãn, nên sợ hãi. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Đình chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhứt tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Như vậy gọi là xuất ly lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, giác ngộ lạc. Ta nói loại lạc này nên thực hành, nên tu tập, nên làm cho sung mãn, không nên sợ hãi.
Khi được nói đến “Nên biết phán xét về lạc; sau khi phán xét về lạc, hãy chú tâm vào nội lạc”, do chính duyên này được nói đến như vậy”[1].
Như vậy, trước khi khuyên mọi người tu Thiền, chú tâm vào nội lạc (ajjhattasukha), Đức Phật dạy mọi người phải biết phân biệt rõ hai loại lạc, dục lạc (kàmasukha) và Thiền lạc (Jhànasukha).
Dục lạc (kàmasukha) nghĩa là hạnh phúc thường tình giữa thế gian, tức sự thỏa mãn các khoái cảm của giác quan như sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, cảm xúc êm dịu hay sự sở hữu và thụ hưởng các lạc thú trần thế như tiền tài vật chất (tài), danh vọng quyền lực (danh), sắc đẹp khác phái (sắc), ăn uống no say (thực), ngủ nghỉ êm ái (thùy). Đây là loại hạnh phúc hấp dẫn và đặc trưng nhất trong thế giới con người, gắn liền với nghiệp thức của loài người, trở thành món ăn ưa chuộng và đối tượng tìm cầu của hết thảy mọi người. Loại lạc thú này có công năng bảo dưỡng sự sống của con người, kích thích các hoạt động tạo tác của con người, thôi thúc con người tạo ra thế giới văn minh vật chất, một thế giới mà Đức Phật đã định danh là “thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho lòng tham”[2], vì ở đó con người không bao giờ biết đủ và cảm thấy thỏa mãn.
Kinh Pháp cú xác nhận:
Dầu mưa bằng tiền vàng,
Các dục khó thỏa mãn;
Dục đắng nhiều ngọt ít,
Biết vậy là bậc trí [3].
Chính vì bản chất luôn luôn thiếu thốn và khao khát của dục vọng nên Đức Phật gọi loại hạnh phúc này là dục trưởng dưỡng (kàmaguna), nghĩa là loại lạc thú nuôi lớn lòng tham, kích thích bản chất ham muốn của con người, khiến cho con người luôn luôn nghèo đói, khao khát tìm kiếm, sở hữu bao nhiêu cũng không thấy đủ. Cũng do tính chất càng khao khát thỏa mãn càng nghèo đói thiếu thốn, dục lạc được xem là động cơ của mọi hành vi bất thiện đưa đến bất hạnh khổ đau cho con người và cuộc đời. Đại kinh Khổ uẩn thuộc tuyển tập Trung bộ nêu một loạt các hậu quả nguy hại do lòng tham muốn dục lạc gây ra:
“Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với vua, Sát-đế-lỵ tranh đoạt với Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn tranh đoạt với Bà-la-môn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ, mẹ tranh đoạt với con, con tranh đoạt với mẹ, cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha, anh em tranh đoạt với anh em, anh tranh đoạt với chị, chị tranh đoạt với anh, bạn bè tranh đoạt với bạn bè. Khi họ đã dấn mình vào tranh chấp, tranh luận, tranh đoạt, họ công phá nhau bằng tay; họ công phá nhau bằng đá; họ công phá nhau bằng gậy; họ công phá nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung và tên, họ dàn trận hai mặt, và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung và tên, họ công phá thành quách mới trét vôi hồ và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Ở đây, họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ đổ nước phân sôi, họ đè bẹp nhau bằng đá, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ đột nhập nhà cửa, họ cướp giật đồ đạc, họ hành động như kẻ cướp, họ phục kích các đường lớn, họ đi đến vợ người. Các vua chúa khi bắt được một người như vậy liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ chặt tay, họ chặt chân... họ lấy gươm chặt đầu. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm các ác hạnh về ý. Do họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm các ác hạnh về ý, khi thân hoại mạng chung, họ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục”.
Theo lời Phật thì dục lạc vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn, nhưng con người không thể thoát khỏi sự trói buộc và chi phối của các dục, trừ phi có sự chuyển hóa và thăng hoa tâm thức gọi là hành Thiền:
“Này Mahànàma, thuở xưa, khi Ta còn là Bồ-tát, chưa chứng được Bồ-đề, chưa thành Chánh đẳng Chánh giác, Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ: ‘Các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn’, dầu Ta có thấy với như thật chánh trí tuệ như vậy, nhưng Ta chưa chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao thượng hơn. Và như vậy Ta biết rằng, Ta chưa khỏi bị các dục chi phối. Và này Mahànàma, khi nào Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ: ‘Các dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn’, và Ta chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao thượng hơn, như vậy Ta khỏi bị các dục chi phối”[6].
Thiền lạc (Jhànasukha) nghĩa là niềm hân hoan an lạc nội tâm, đạt được nhờ chuyển hóa và thanh lọc tâm thông qua hành Thiền. Đây là phương pháp chuyển hóa tâm thức rất quan trọng, làm phát sinh các cấp độ an lạc tinh tế sâu lắng thuộc tâm thức gọi là nội lạc (ajjhattasukha), có khả năng làm thay đổi cảm thức của con người về kinh nghiệm hạnh phúc. Theo kinh nghiệm tu tập của Đức Phật thì Thiền lạc có khả năng đối trị và nhiếp phục dục lạc[7], vì Thiền lạc vi diệu, thù thắng[8] và an ổn hơn dục lạc[9]. Bậc Giác ngộ đánh giá cao Thiền lạc, gọi hành Thiền (jhànabhavanà) là Tăng thượng tâm (adhicitta) và hiện tại lạc trú (ditthadhammasukha- vihàra), tức sự thăng hoa tâm thức và sống an lạc ngay trong hiện tại.
Sau đây là các minh họa liên quan đến Thiền lạc:
- Cảm giác sung sướng hân hoan do gột rửa tâm khỏi năm triền cái (tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi ngờ), như người mắc nợ thoát khỏi nợ nần, như người bệnh thoát khỏi bệnh tật, như người tù được trả tự do, như người nô lệ thoát khỏi cảnh nô lệ, như người buôn băng qua sa mạc được an toàn: “Vị Tỷ-kheo lựa một chỗ thanh vắng tịch mịch, như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm và thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử hối quá, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
Này các Tỷ-kheo, như một người mắc nợ liền làm các nghề nghiệp. Những nghề này được phát đạt, người ấy không những trả được nợ cũ, còn có tiền dư để nuôi dưỡng vợ... Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như một người bị bệnh, đau đớn, trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể lực suy yếu. Sau một thời gian, người ấy khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông, thể lực khôi phục... Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỷ- kheo, như một người bị nhốt trong ngục. Người ấy sau một thời gian được khỏi tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn... Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như một người nô lệ, không được tự chủ, lệ thuộc người khác, không được tự do đi lại. Người ấy sau một thời gian thoát khỏi cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc người khác, được tự do đi lại... Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như một người giàu có, nhiều tài sản, đang đi qua bãi sa mạc. Người ấy sau một thời gian đã đi khỏi bãi sa mạc ấy, đến đầu làng, yên ổn, không có nguy hiểm, tài sản không bị tổn giảm... Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tự mình quán năm triền cái chưa xả ly, như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường qua sa mạc. Này các Tỷ-kheo, cũng như không mắc nợ, không bị bệnh tật được khỏi tù tội, được tự do, đến được đất lành yên ổn. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán năm triền cái khi chúng được diệt trừ”.
- Lạc sơ Thiền: “Vị Tỷ-kheo ly dục, ly ác, bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không có hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, như một người hầu tắm lão luyện, hay đệ tử người hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần”.
- Lạc đệ nhị Thiền: “Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một hồ nước, nước từ trong dâng lên, phương Đông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra, thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh thấm nhuần”.
- Lạc đệ tam Thiền: “Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “xả niệm lạc trú”, chứng và trú Thiền thứ ba. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng hay sen trắng. Những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần, tẩm ướt, tràn đầy thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ- kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần”.
- Lạc đệ tứ Thiền: “Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che thấu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy ngồi thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần”[10].
Các mô tả và minh họa về bốn trạng thái Thiền trên đây của Kinh tạng Pàli cho chúng ta một hình ảnh sống động về kinh nghiệm hạnh phúc an lạc của pháp môn hành Thiền. Một người hành Thiền tức là một người đang sống trong hạnh phúc an lạc. Vị ấy hạnh phúc an lạc bởi thân và tâm vị ấy được thấm nhuần, tẩm ướt, tràn đầy với hỷ lạc do ly dục sanh, với hỷ lạc do định sanh, với xả niệm lạc trú và với xả niệm thanh tịnh. Kinh tạng Pàli ví người hành Thiền giống như một người đứng trên núi cao, có thể hít thở không khí trong lành và thưởng thức vẻ đẹp của một cảnh quan thiên nhiên rộng lớn, so với cảm thức giới hạn của người không hành Thiền, đứng dưới chân đồi[11].
Như vậy, hành Thiền là bước chuyển hóa và thực nghiệm tâm thức to lớn với kết quả thân được khinh an, thoải mái, tâm được hân hoan, định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản. Chính trên nền tảng một tâm thức được khéo huấn luyện như vậy mà hành giả có thể dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh nhằm đoạn tận các lậu hoặc, thành tựu quả vị giải thoát giác ngộ.
Do Thiền lạc có khả năng làm trong sáng và an tịnh nội tâm, giúp cho người thực hành thành tựu trí tuệ đưa đến đoạn tận các lậu hoặc, Đức Phật xem loại hạnh phúc này là lạc thọ hợp pháp (dhammikasukha), tức loại hạnh phúc của sự thoát khỏi mọi trói buộc thế gian, của nếp sống thanh tịnh, nội tâm vắng lặng, của tâm thức an tịnh, vắng bặt các cấu uế tham-sân-si hay năm triền cái, hay niềm vui có khả năng đưa đến giải thoát giác ngộ, gọi là xuất ly lạc (nekkhammasukha), độc cư lạc (vivekasukha), an tịnh lạc (upasamasukha), Chánh giác lạc (Samboddhasukha)[12]. Cũng theo lời Phật thì Thiền lạc là loại hạnh phúc không có đau khổ, không có phiền lao, không có ưu não, không có nhiệt não, không đưa đến tranh chấp mà mọi người nên thực hành, nên tu tập, nên làm cho sung mãn[13].
Vài nhận xét:
Như vậy, Đức Phật khuyên mọi người tu Thiền, chú tâm vào nội lạc, vì các lẽ sau đây:
- Hạnh phúc là ước mong muôn thuở của con người và loài người. Con người sống là để được hạnh phúc và kiến tạo hạnh phúc. Tuy nhiên, hạnh phúc có nhiều loại và nhiều cấp độ khác nhau, tùy thuộc vào quan niệm và khuynh hướng tâm thức của mỗi người. Đạo Phật phân định rõ từng loại hạnh phúc, xác định rõ loại hạnh phúc nào cần vượt qua, loại hạnh phúc nào nên kiến lập, đồng thời chỉ rõ phương pháp cụ thể giúp cho con người tìm thấy lối đi đưa đến thăng tiến hạnh phúc.
- Dục lạc là hạnh phúc thường tình giữa thế gian gắn liền với đời sống của con người, có chức năng thôi thúc con người nỗ lực kiến tạo và hoàn thiện đời sống vật chất và thụ hưởng các thành quả của đời sống văn minh vật chất. Dục lạc có công năng nuôi lớn lòng tham hay dục vọng của con người; vì vậy, dục lạc chính là nguyên nhân của mọi xu hướng cạnh tranh, tranh chấp, tranh đoạt, công kích và chiến tranh xảy ra giữa con người và con người, giữa các giai cấp, giữa các quốc gia hay các khối chủ nghĩa. Tính chất nguy hiểm của dục lạc trải dài lịch sử loài người, khiến cho đời sống nhân loại không có được nhiều hạnh phúc an ổn so với cảm thức bất an sầu muộn.
- Dục lạc vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn, nhưng con người hầu như không tìm thấy giải pháp để khắc phục và vượt qua. May mắn thay, Đức Phật thị hiện ở đời đã giúp cho nhân loại tìm thấy giải pháp cứu nguy cho lối sống bất an bị trói buộc bởi dục lạc thế gian. Đó là con đường chuyển hóa tâm thức mà bậc Giác ngộ đã chứng nghiệm và tuyên thuyết, con đường của sự tu tập thăng tiến đạo đức, tâm thức và trí tuệ, có khả năng chuyển đổi các thói quen của đời sống con người, từ nhận thức đến hành động và cảm nghiệm, giúp cho con người tìm thấy lối sống giải thoát an lạc ngay trong thế giới bị trói buộc khổ não bởi dục lạc. Theo kinh nghiệm của Đức Phật thì hành Thiền chính là con đường vượt qua sự trói buộc và chi phối của dục lạc, vì Thiền làm phát sinh Thiền lạc, tức sự thanh thản an lạc sâu sắc thuộc nội tâm, có khả năng thay thế và đối trị dục lạc.
- So với dục lạc tiềm ẩn nhiều nguy hiểm bởi bản chất vị kỷ, hướng hạ của nó, Thiền lạc hay hạnh phúc của sự chuyển hóa và thăng tiến tâm thức được xem là hạnh phúc chân chính, hướng thượng (dhammikasukha), vì đó là loại hạnh phúc ly dục (nekkhammasukha), ly tham (pavivekasukha), vắng bặt các cấu uế (upamasukha), đưa đến giác ngộ, hướng đến Niết-bàn (Samboddhasukha). Đó là loại hạnh phúc của người leo núi cao Thiền định và trí tuệ, cảm nghiệm cả một bầu không gian khoáng đãng và giải thoát, so với cảm thức ô nhiễm và ngột ngạt của những người đứng dưới chân đồi, không hành Thiền, bị dục lạc chi phối.
- Thiền có khả năng chuyển hóa con người, chuyển hóa đời sống và hạnh phúc của con người theo chiều hướng tốt đẹp tiến gần mục tiêu giác ngộ. Thiền nâng cao tâm thức con người, nâng cao hạnh phúc của con người. Thiền mang lại cho con người thân khỏe tâm an, giúp cho con người tìm thấy lẽ sống giải thoát an lạc trong đời sống hàng ngày, một lối sống sáng suốt tinh cần, thiểu dục tri túc, có hiểu biết, có tỉnh thức, cảm nghiệm trọn vẹn tính chất mầu nhiệm của sự sống an lạc tự nội, không còn quay cuồng tìm kiếm một cách mệt mỏi và bất an các lạc thú ở bên ngoài.
- Thiền là tiến trình khai mở tuệ giác giải thoát, vì Thiền có công năng thanh lọc tâm, khiến cho tâm đạt đến trong sáng, định tĩnh, thấu suốt bản chất duyên sinh, vô thường, khổ, vô ngã của mọi sự vật và hiện tượng, giúp cho người thực hành dễ dàng buông bỏ các tập quán tham ái và chấp thủ, đưa đến chứng đắc tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chấm dứt khổ đau sinh tử luân hồi.
Chú thích:
1. Kinh Vô tránh phân biệt, Trung bộ.
2. Kinh Ratthapàla, Trung bộ.
3. Kinh Pháp cú, kệ số 186.
4. Đại kinh Khổ uẩn, Trung bộ.
5. Kinh Ví dụ con chim cáy, Trung bộ.
6. Tiểu kinh Khổ uẩn, Trung bộ.
7. Tiểu kinh Khổ uẩn, Trung bộ.
8. Kinh Đa thọ, Trung bộ.
9. Kinh Vô tránh phân biệt, Trung bộ.
10. Đại kinh Xóm ngựa, Trung bộ.
11. Kinh Điều ngự địa, Trung bộ.
12. Kinh Vô tránh phân biệt, Trung bộ.
13. Kinh Vô tránh phân biệt, Trung bộ.
Theo Văn hoá Phật giáo số 302 ngày 01-08-2018