Pháp thí thắng mọi thí - Pháp hỷ thắng mọi hỷ - Ái diệt thắng mọi khổ - Niết-bàn lạc tối thượng.

>>

Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Từ Nhơn (1926 - 2013)

Thế rồi, theo duyên tan họp, Hòa thượng đã thuận thế vô thường, thu thần viên tịch vào lúc 07 giờ ngày 25 tháng 4 năm 2013, nhằm ngày 16 tháng 3 năm Quý Tỵ tại Việt Nam Quốc Tự, đường 3 tháng 2, phường 12, quận 10, Tp. Hồ Chí Minh. Trụ thể 88 năm, Hạ lạp 68 năm.
Mục lục

TIỂU SỬ ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TỪ NHƠN
(1926 - 2013)
-        Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
-        Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
-        Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN.
-        Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
-        Nguyên Phó Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự THPG Tp. Hồ Chí Minh.
-        Trụ trì Việt Nam Quốc Tự, số 244 đường 3 tháng 2, P. 12, Q. 10, Tp. HCM.
-        Viện chủ chùa Phước Thạnh, thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
I. Thân thế
Hòa thượng Thích Từ Nhơn, thế danh Nguyễn Văn Sáu, sinh năm Bính Dần (1926) tại Sa Đéc, nay là tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Diệu, pháp danh Thiện Đạo húy Hồng Diệu. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Tuất, pháp danh Diệu Minh.  
II. Thời kỳ xuất gia học Đạo
Vốn sinh ra trong gia đình thượng lưu trí thức, Phật tử thuần thành, nhiều đời tin kính Tam bảo, nên khi còn nhỏ, Hòa thượng đã có cơ duyên ở trong chùa đi học. Ngài được thân sinh là Hòa thượng Hồng Diệu hiệu Thiện Đạo Trụ trì Phước Thạnh Cổ Tự đưa về Tổ đình Phi Lai xuất gia với Sư bá Hồng Pháp hiệu Thiện Minh (chú ruột), Trưởng tử Tổ Phi Lai, được Hòa thượng ban pháp húy Nhựt Sáu, hiệu Từ Nhơn, nối pháp dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41.
Năm 1936, Hòa thượng được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại Giới đàn chùa Vĩnh Hòa, Xã Vĩnh Lợi, huyện Thạnh Hòa, tỉnh Bạc Liêu do Hòa thượng Huệ Viên tổ chức và cung thỉnh Tổ Vạn An (Hòa thượng Thích Chánh Thành) đương vi Chứng minh, Hòa thượng Bửu Chung chùa Phước Long đương vi Pháp sư, Hòa thượng Chánh Quả chùa Kim Huê đương vi Bố tát.
Từ năm 1944 – 1946, Hòa thượng theo học lớp Phật học tại chùa Long An, Sa Đéc, do Quý Hòa thượng Thích Khánh Phước, Thới An, Hành Trụ, Thiện Tường… chủ giảng.
Năm 1945, để viên mãn Tam đàn giới pháp, Hòa thượng đã đăng đàn thọ Đại giới Tỳ Kheo Bồ tát tại Tổ đình Vạn An, rạch Cái Xếp, nay thuộc xã An Nhơn, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp, do đại lão Hòa Thượng Luật sư Thích Chánh Quả, Trụ trì Kim Huê cổ Tự làm Đàn đầu Hòa Thượng.
Sau khi trở thành Pháp khí trong ngôi Tam bảo, để mở mang kiến thức Phật học, Hòa thượng đã tiếp tục theo học Kinh luật luận với các Trưởng lão Hòa thượng tại Trường Gia giáo Phi Lai - Châu Đốc, Tổ đình Thiên Thai – Bà Rịa, Lưỡng Xuyên Phật học – Trà Vinh, Tổ đình Vạn An, Tổ đình Kim huê, Long An Cổ tự - Sa Đéc v.v…
III. Thời kỳ hành đạo:
Năm 1951, Giáo hội Tăng già Nam Việt được thành lập tại chùa Hưng Long – Chợ Lớn, Văn phòng đặt tại chùa Ấn Quang, do Hòa thượng Đạt Từ làm Trị sự trưởng. Năm 1952, Hòa thượng được Giáo hội cử làm Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già Nam Việt tỉnh Sa Đéc kiêm giảng sư Tỉnh hội trong nhiều nhiệm kỳ.
Năm 1953, Hòa thượng được Bổn sư giao trọng trách Trụ trì Phước Thạnh Cổ Tự.
Từ năm 1953 – 1963, Hòa thượng đảm nhiệm chức Trị sự Trưởng Giáo hội Tăng già Nam Việt tỉnh Sa Đéc, kiêm Cố vấn Giáo lý – Trưởng ban Hoằng pháp tỉnh Sa Đéc. Là một vị Pháp sư danh tiếng, Hòa thượng đi hoằng pháp khắp nơi trong tỉnh và các tỉnh miền Tây Nam bộ.  
Năm 1961, Hòa thượng khởi công xây dựng tượng đài Quan Âm lộ thiên và trang nghiêm hậu Phật điện Phước Thạnh Cổ Tự. Đến năm 1970, Ngài trùng tu ngôi Chánh điện bằng vật liệu kiên cố.
Sau ngày Cách mạng 01/11/1963 thành công, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập ngày 04/01/1964, Hòa thượng là Trưởng đoàn Giáo hội Tăng già Nam Việt tỉnh Sa Đéc tham dự Đại hội thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Ngài được suy cử chức Ủy viên Tài chánh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất kiêm Phó tổng vụ Tăng sự liên khóa cho đến năm 1975. Cùng năm, Ngài được Hòa thượng Thiện hoa, Hòa thượng Thiện Hòa giao chức Tổng Thủ bổn Viện Hóa Đạo và lưu trú tại chùa Ấn Quang cho đến năm 1993.
Năm 1965, Hòa thượng lại được Viện Hóa Đạo bổ nhiệm làm Trụ trì Việt Nam Quốc Tự, số 16 đường Trần Quốc Toản, nay là số 244 đường 3 tháng 2, quận 10, Tp. Hồ Chí Minh, thay cho Hòa thượng Thiện Hoa vì bận nhiều Phật sự.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà, các Tổ chức Giáo hội, Hệ phái Phật giáo họp nhất tại chùa Quán Sứ, Thủ đô Hà Nội, thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày 07/11/1981. Đại hội suy cử Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Chủ tịch Hội đồng Trị sự đầu tiên của Giáo hội. Cũng tại Đại hội nầy, Hòa thượng Thích Trí Tịnh được suy cử làm Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự Trung ương; và Hòa thượng được Hòa thượng Thích Trí Tịnh mời làm Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tăng sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho đến ngày về cõi Phật.
Năm 1990, sau khi Hòa thượng Thích Huệ Hưng – Tổng lý Hội đồng Quản trị Tổ đình Ấn Quang viên tịch, Hòa thượng được Ban Quản trị Tổ đình suy cử làm Tổng lý Hội đồng Quản trị cho đến ngày viên tịch.
Trong quá trình thành lập Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 1982, tại Đại hội lần thứ nhất, Hòa thượng được cử làm Phó Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự Thành hội Phật giáo trong nhiều nhiệm kỳ từ năm 1982 – 1997.
Năm 1992, tại Đại hội kỳ III Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng đã được Đại hội suy cử làm Ủy viên Hội đồng Trị sự.
Tại Đại hội kỳ IV (1997), Hòa thượng được suy tôn làm thành viên Hội đồng Chứng minh, suy cử làm Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN.
Tại Đại hội kỳ V, VI và VII, Hòa thượng đã được Đại hội suy cử làm Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự cho đến ngày xả bỏ báo thân.
Từ năm 1984 – 1993, Hòa thượng đã cùng chư Tôn đức Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh, nhất là Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Hòa thượng Thích Thiện Hào đã cùng xin lại phần đất và Tháp Việt Nam Quốc Tự để sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo, là đơn vị Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh; đồng thời ghi lại dấu ấn lịch sử đấu tranh và hy sinh gian khổ của Tăng Ni, Phật tử miền Nam trước năm 1975. Đáp ứng nguyện vọng chính đáng của Thành hội Phật giáo, ông Nguyễn Viết Thanh – Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Tp. Hồ Chí Minh đã ký Quyết định số 2677/QĐ.UBND ngày 22/11/1992, chấp thuận giao lại một phần diện tích đất là 3.712m2 và ngôi Bảo tháp Việt Nam Quốc Tự cho Thành hội Phật giáo quản lý.
Trên cơ sở đó và tiếp tục truyền thống lịch sử mang tính kế thừa của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh đã tiếp tục bổ nhiệm Hòa thượng đảm nhiệm chức vụ Trụ trì Việt Nam Quốc Tự cho đến ngày xả báo an tường.
Sau khi nhận lãnh trách nhiệm và với vai trò trụ trì Việt Nam Quốc Tự, Hòa thượng đã tiếp tục hoàn chỉnh ngôi Bảo tháp và xây dựng thêm các hạng mục, tôn tạo nhiều Thánh tượng trong khuôn viên chùa cảnh, góp phần trang nghiêm cơ sở của Giáo hội và Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh trong lòng thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu.
Ngoài ra, Hòa thượng còn tổ chức Đạo tràng tu Bát Quan Trai, khai giảng lớp Giáo lý hằng tuần, do Giảng sư Ban Hoằng pháp Thành hội Phật giáo đảm trách, mỗi đêm có đến hằng trăm Phật tử tụng kinh Pháp Hoa tại Chánh điện. Trong các ngày lễ của Phật giáo, có hàng ngàn Phật tử, đồng bào các giới đến chiêm lễ và tụng niệm. 
Đối với công đức làm Giới sư các Đại Giới đàn, từ năm 1964 đến ngày viên tịch, Hòa thượng đã từng được cung thỉnh làm Giới sư, Đường đầu Hòa thượng, Yết ma, Giáo thọ A Xà Lê tại các Giới đàn, để truyền trao giới pháp cho các giới tử như Sài gòn, Gia Định, Tp. Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Đồng Tháp v.v…
Tại Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VII, Hòa thượng được Đại hội suy cử làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhiệm kỳ 2009 – 2014.       
Với những công đức đóng góp cho Đạo pháp và Dân tộc, Hòa thượng đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương vì sự nghiệp Đại đoàn kết toàn Dân tộc, Bằng tuyên dương công đức của Giáo hội.                 
IV. Thời kỳ viên tịch:
Với Báo thân dị thục, hiện hữu trên cõi đời theo duyên giả họp, sau hơn 80 năm hoạt động liên tục, chắc chắn cũng đến ngày hao mòn, suy yếu, do đó trong những năm tháng sau cùng của cuộc đời, tuy sức khỏe của Hòa thượng có phần suy yếu nhưng lúc nào Hòa thượng cũng vẫn giữ chánh niệm bằng câu Niệm Phật, tay lần tràng hạt Bồ đề. 
Thế rồi, theo duyên tan họp, Hòa thượng đã thuận thế vô thường, thu thần viên tịch vào lúc 07 giờ ngày 25 tháng 4 năm 2013, nhằm ngày 16 tháng 3 năm Quý Tỵ tại Việt Nam Quốc Tự, đường 3 tháng 2, phường 12, quận 10, Tp. Hồ Chí Minh. Trụ thể 88 năm, Hạ lạp 68 năm.
Như vậy là Hòa thượng đã viên mãn hóa duyên cõi Ta bà, trở về thế giới Niết bàn vô tung bất diệt, nhưng công đức và đạo nghiệp của Hòa thượng vẫn còn sống mãi trong tâm tư ký ức của người con Phật và trang sử muôn màu của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.
Nam Mô Việt Nam Phật giáo Giáo hội Chứng minh Hội đồng Thành viên, Trị sự Hội đồng Phó Chủ tịch Thường trực, Việt Nam Quốc Tự đường thượng Từ Lâm Tế Gia Phổ, Tứ thập nhất thế pháp húy Nhựt Sáu hiệu Từ Nhơn, Nguyễn công Hòa thượng tác đại chứng minh.

Đại Tạng Kinh Việt Nam

Tháng Năm