Vô ngã vị tha - cách nhìn Phật giáo về công bằng xã hội
Vô ngã và công bằng xã hội Phật giáo có hàm chứa khả năng tiềm tàng cho một lý thuyết về công bằng xã hội thích hợp với những nhu cầu của xã hội hiện thời hay không?
Mục lục
- 10 - Thư mời viết bài hội thảo khoa học: Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền với Hội Phật học Nam Việt
- 11 - Thư mời viết bài tham luận cho Vesak 2019
- 12 - Thư mời viết bài hội thảo khoa học: Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám và Hội An Nam Phật học
- 13 - Ảnh hưởng của phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam(1920) đến việc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam(1981)
- 14 - Tỷ-kheo phải biết xông khói
- 15 - Nhân minh học là khoa học của mọi luận lý
- 16 - Thư mời HỘI THẢO KHOA HỌC "Phật giáo Cổ truyền Việt Nam và sự đóng góp cho Đạo Pháp và Dân Tộc"
- 17 - Đạo Phật và trí thức
- 18 - Sách nói : Kinh Trường Bộ
- 19 - Ra mắt nhân sự Viện nghiên cứu Phật học VN NK 2007- 2012
- 20 - Cơ cấu nhân sự Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 21 - Ra mắt nhân sự Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 22 - Viện Nghiên cứu Phật học VN tổng kết năm 2014
- 23 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổ chức lễ tổng kết Phật sự 2015 và phương hướng hoạt động 2016
- 24 - Buổi họp Ban thường trực Hội đồng Quản trị Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 25 - BTS Phật giáo TP.HCM làm lễ Tự tứ mãn hạ
- 26 - Viện Nghiên Cứu Phật Học VN họp chỉnh sửa bổ sung cho quy chế nhiệm kỳ 8 (2017-2022)
- 27 - Viện Nghiên cứu Phật học VN thăm viếng chư tôn đức dịch giả
- 28 - Sẽ nỗ lực hoàn thành Bộ Đại tạng kinh Việt Nam
- 29 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam họp phiên đầu tiên của nhiệm kỳ mới
- 30 - Gần 450 nhân sự tham gia Viện Nghiên cứu Phật học VN
- 31 - Khởi động việc ấn hành Đại tạng kinh Phật giáo VN
- 32 - HỌC CÁCH ĐỐI DIỆN VỚI SỢ HÃI
- 33 - Con người phụ thuộc vào tự nhiên và có sự tác động lẫn nhau
- 34 - Nguồn gốc Phật giáo
- 35 - Phiên âm Đại Tạng Kinh
- 36 - Góp chút công sức cho Đại tạng kinh Việt Nam
- 37 - Góp phần đề nghị một đề cương biên dịch cho Đại tạng kinh Việt Nam
- 38 - Học và tu
- 39 - Viện Nghiên cứu Phật học VN có Ban Vận động tài chánh
- 40 - Hoạt động của Ban Phiên dịch Phật học Anh - Việt
- 41 - Lễ tổng kết của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, nhiệm kỳ 2012-2017
- 42 - Tôn giáo và Đạo đức
- 43 - Khai phát Trí tuệ nhìn từ tư tưởng Kinh Duy Ma Cật
- 44 - Thủ tướng chủ trì họp về công tác tổ chức Đại lễ Vesak 2019
- 45 - Chuẩn bị cho Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 46 - Phỏng vấn Hoà thượng Chủ tịch ICDV về Vesak 2019
- 47 - TP.HCM:Họp Ủy ban Quốc gia Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 48 - VIDEO: Việt Nam đăng cai lần thứ 3 Đại lễ Vesak LHQ
- 49 - Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội triển khai công tác Phật sự năm 2019
- 50 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (1)
- 51 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (2)
- 52 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (3)
- 53 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (4)
- 54 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (5)
- 55 - Thân người khó được, Phật pháp khó nghe
- 56 - Nếp sống đạo đức, lành mạnh của người Phật tử
- 57 - Suy nghĩ đôi điều về sự cầu siêu và cúng thí thực
- 58 - Chữ Tâm trong đạo Phật
- 59 - Phật giáo mô tả về Vũ trụ như thế nào? (1)
- 60 - Phật giáo mô tả về Vũ trụ như thế nào? (2)
- 61 - Để tâm Vô trụ khi làm từ thiện
- 62 - Tính chất giáo dục của Giới luật Phật giáo
- 63 - Ý thức về Tội lỗi
- 64 - Điều quan yếu của đời sống
- 65 - Hiểu rõ hơn về Nghiệp
- 66 - Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Cảnh (1937-2018)
- 67 - Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Sam (1929 - 2018)
- 68 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Đức Chơn(1932-2017)
- 69 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Chơn Kim (1930 - 2017)
- 70 - Sơ Lược Tiểu Sử Hòa thượng Thích Trí Tịnh
- 71 - Tiểu Sử Đại Lão Hòa thượng Thích Đổng Quán(1925-2009)
- 72 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Bửu Chung (1881-1947)
- 73 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Huệ Quang (1888 - 1956)
- 74 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Khánh Anh
- 75 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Hoàng Từ
- 76 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Nhật Liên
- 77 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Thiện Hoa (1918 - 1973) Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN
- 78 - Sơ Lược Tiểu Sử Hòa thượng Thích Quảng Tâm
- 79 - Tiểu Sử cố Đại Lão Hòa thượng Thích Bảo An
- 80 - Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ
- 81 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Bửu Phước (1880-1948)
- 82 - Tiểu sử trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu (1918 - 2012)
- 83 - Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Từ Nhơn (1926 - 2013)
- 84 - Tìm hiểu giáo nghĩa Tịnh độ Chân tông Nhật Bản
- 85 - Không đắm nhiễm thì sống vui
- 86 - Cõi âm có hay không? Nhận thức của Phật giáo đối với vấn đề này
- 87 - Kinh Tương Ưng Bộ - HT Thích Minh Châu dịch Việt
- 88 - Kinh Trường Bộ 1 - HT Thích Minh Châu dịch Việt
- 89 - Nhân sự Ban in ấn và phát hành nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 90 - Nhân sự Ban Tài chính nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 91 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 92 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Phật học Hán truyền nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 93 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Văn học Phật giáo nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 94 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Thiền học Nam Truyền nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 95 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Thiền học Bắc Truyền nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 96 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Nữ giới Phật giáo nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 97 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 98 - Nhân sự Trung tâm Phiên dịch Anh - Việt Phật học nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 99 - Nhân sự Phân viện Nghiên cứu Phật giáo Nam Tông nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 100 - Nhân sự Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 101 - Quan điểm về Theravāda và Mahāyāna của Phật Hoàng Trần Nhân Tông
- 102 - Tìm hiểu ý nghĩa câu kệ Sùng Nghiêm của Trần Nhân Tông
- 103 - Mục tiêu của đạo Phật là gì?
- 104 - Khởi nguyên Thiền Học Việt Nam
- 105 - Phật hoàng Trần Nhân Tông và những giá trị siêu việt
- 106 - Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng (P.1)
- 107 - Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng (P.2)
- 108 - Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng (P.3)
- 109 - Lợi ích của pháp tu lạy Phật
- 110 - Tại sao nhiều người mê cõi Tây phương Cực lạc?
- 111 - Đức Phật có phủ nhận việc cầu nguyện?
- 112 - Bốn pháp mang đến an lạc đời sau cho người cư sĩ
- 113 - Ba căn lành chẳng thể cùng tận
- 114 - Cầu nguyện có được kết quả như ý không?
- 115 - Vì người tạo ác nghiệp, chính mình phải chịu tội
- 116 - Phật dạy 20 điều khó
- 117 - Biết sống vô thường (P.1)
- 118 - Biết sống vô thường (P.2)
- 119 - Biết sống vô thường (P.3)
- 120 - Biết sống vô thường (Phần cuối)
- 121 - 7 thứ gia tài bậc Thánh
- 122 - Cầu nguyện là chánh tín hay mê tín?
- 123 - Để việc phóng sinh thể hiện lòng từ bi đúng nghĩa
- 124 - Tự vấn về Pháp môn Tịnh độ
- 125 - Ý nghĩa tụng kinh Dược Sư và niệm Phật Dược Sư
- 126 - Pháp trợ niệm của Đức Phật
- 127 - Làm sao vui với chuyện thị phi?
- 128 - Đại lễ Vesak 2019: Sự kiện đối ngoại nhân dân
- 129 - Người gánh phân nghèo hèn và bài học Tâm không phân biệt của Đức Phật
- 130 - Bản ý của Tịnh độ tông
- 131 - Ba điều căn bản của người tu Phật
- 132 - Năm pháp khiến Chánh pháp không diệt ở thời Mạt pháp
- 133 - Về niên đại Hán dịch của kinh Na Tiên Tỳ-kheo
- 134 - Vua Trần Nhân Tông và tinh thần "Bụt ở trong nhà"
- 135 - Bản chất thời gian với ý nghĩa giải thoát của đạo Phật
- 136 - Đạo Phật bi quan hay lạc quan?
- 137 - Cực Lạc và Luân Hồi: Bất Nhị trong Tịnh Độ Tông
- 138 - Nguyễn Du và Phân Kinh Thạch Đài
- 139 - Cận cảnh ngôi chùa đăng cai đại lễ Vesak 2019 và khối Thiên thạch Mặt Trăng 600.000 USD
- 140 - Họp Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 141 - Pali - Việt đối chiếu
- 142 - Từ điển Bách khoa Phật giáo Việt Nam
- 143 - Từ điển Pháp số Tam Tạng
- 144 - Từ điển Hư Từ
- 145 - Từ điển Hán Phạn - Buddhist Chinese-Sanskrit
- 146 - Phật Quang Đại Từ điển
- 147 - Từ điển Thiền tông Hán - Việt
- 148 - Hạnh phúc là gì, mà ai cũng phải đi tìm?
- 149 - Tiếp tục đôn đốc, chuẩn bị cho Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 150 - Nghiên cứu về trải nghiệm cận tử thông qua thiền định
- 151 - Tiêu giải nghiệp chướng theo lời Phật dạy
- 152 - 7 điều suy ngẫm từ Đạt Lai Lạt Ma có thể thay đổi cuộc đời của bạn
- 153 - Ba bài học sâu sắc từ Phật giáo để có được sự an lạc giữa cuộc sống bộn bề
- 154 - Thiền sư Khương Tăng Hội: Sơ tổ của Thiền tông Việt Nam
- 155 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổng kết 6 tháng cuối năm 2018 và triển khai hoạt động năm 2019
- 156 - Hội nghị trù bị lần 2 Đại lễ Vesak 2019 tại Việt Nam
- 157 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đảnh lễ Hoà thượng Thiền sư Thích Thanh Từ
- 158 - Đại lễ Phật đản Vesak 2019 có gì đặc biệt?
- 159 - Bốn pháp thu phục lòng người
- 160 - Tổng hợp những lời dạy của Đức Phật hay và ý nghĩa
- 161 - Vô ngã vị tha - cách nhìn Phật giáo về công bằng xã hội
- 162 - Vô minh trong Phật giáo có ý nghĩa gì?
- 163 - 7 việc Phật dạy không đáng “hy sinh” trong đời
- 164 - Nuôi dưỡng lòng từ bi trong cuộc sống với 7 bước luyện tập
- 165 - Những câu nói truyền cảm hứng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 166 - Làm thế nào để có một đời sống đạo đức?
- 167 - Lắng nghe 108 lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma
- 168 - Khiêm tốn là phẩm đức của bậc đại trí
- 169 - Thiền sư Vạn Hạnh và tinh thần Phật giáo đồng hành cùng dân tộc
- 170 - Thiền sư Thường Chiếu – Người có công giao nhập 3 dòng Thiền phái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XIII
- 171 - Tại sao Thiền sư Thường Chiếu dám 'cãi' về Tổ Bồ Đề Đạt Ma?
- 172 - Phật dạy làm người quan trọng nhất là phải có lương thiện
- 173 - Đức Phật là người hạnh phúc!
- 174 - Ý nghĩa cầu nguyện trong đạo Phật
- 175 - Pháp lạc trong tu học
- 176 - Mê và giác
- 177 - Quán vô thường để chứng đạt vô ngã
- 178 - Lời Phật dạy: Sống vị tha là một trong những phép tắc đạo đức cao quý nhất!
- 179 - Lời Phật dạy dành cho những người hay phiền muộn
- 180 - Vì sao hạnh phúc không thể tách rời lòng vị tha?
- 181 - Video giới thiệu Đại lễ Phật Đản Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 182 - Lời Phật dạy về cách tạo dựng phúc đức cho sinh mệnh con người
- 183 - 3 bí ẩn diệu kỳ của thiền định
- 184 - Phật dạy cách buông bỏ mọi phiền não
- 185 - Những nét chính về cuộc đời Hòa thượng Tuyên Hóa
- 186 - Ban Văn hóa T.Ư họp bàn việc phục vụ Vesak 2019
- 187 - 6 chân lí của hạnh phúc từ lời Phật dạy
- 188 - 17 lời khuyên sâu sắc về cuộc sống từ Thiền sư Kodo Sawaki
- 189 - 50 chân lý bất biến của cuộc đời
- 190 - Phật dạy: Hết củi thì lửa tắt
- 191 - Hai thứ tự do
- 192 - Câu chuyện Đức Phật và 3 người đàn ông cùng bài học xương máu
- 193 - Trầm cảm dưới góc nhìn Phật giáo, ngồi Thiền chữa trầm cảm theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 194 - Nghĩ về Đại lễ Liên Hiệp Quốc Vesak 2019 từ những tách trà nóng kỷ niệm
- 195 - An ninh trật tự phục vụ Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019 đã sẵn sàng!
- 196 - Giáo hội Phật giáo Việt Nam triển khai công tác tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 197 - Giới đức nặng hơn đất, mạn cao hơn trời, hồi tưởng nhanh hơn gió và tư tưởng nhiều hơn cỏ!
- 198 - Quán chiếu tâm và đoạn ác tâm để làm sinh thiện tâm
- 199 - Sự ra đi bí ẩn của Tổ sư Hệ phái Khất sĩ Việt Nam Minh Đăng Quang 65 năm trước
- 200 - Cách tiếp cận của con người đối với hoà bình thế giới
- 201 - Thiền sư Khương Tăng Hội sinh ra trên đất Việt, truyền Phật giáo từ Giao Chỉ tới Đông Ngô
- 202 - Chuyển hóa sân hận bằng 5 phương cách theo lời đức Phật dạy!
- 203 - Tuyên Quang triển khai kế hoạch Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019
- 204 - Thiền sư Pháp Đảnh (Hàn Quốc): Đệ Nhất Trì luật-Đạo hạnh sáng ngời
- 205 - Tìm hiểu Thiền Quán tử thi - phép tu mạnh mẽ để nhận thức vô ngã tại Thái Lan
- 206 - Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019: Tôn vinh giá trị nhân văn, hòa bình
- 207 - Lời giảng vi diệu của Đức Phật về thuật Lãnh đạo
- 208 - Ý nghĩa đời sống
- 209 - Lịch trình dự kiến của Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019
- 210 - Lời Phật dạy sâu sắc về lòng hiếu thảo đối với cha mẹ
- 211 - Vì sao vua Lý Thánh Tông đã từng nổi giận đốt chùa rồi lại sám hối xây chùa
- 212 - Phép Hỏa quang tam muội của hai Thiền sư Việt
- 213 - Trút bỏ phiền ưu theo lời Phật dạy
- 214 - Công tác Tình nguyện viên phục vụ Đại lễ Vesak Liên hiệp quốc 2019
- 215 - Vì sao người Phật tử nên ăn chay?
- 216 - Tham lam là liều thuốc độc!
- 217 - Sống hạnh phúc theo lời Phật dạy
- 218 - Cơ sở 2 bệnh viện Bạch Mai ở Hà Nam sẽ phục vụ tốt cho Vesak 2019
- 219 - Công an Hà Nam triển khai kế hoạch giữ trật tự ATGT phục vụ Đại lễ Vesak 2019
- 220 - Nghiệp và Giải nghiệp theo Chánh pháp
- 221 - Các ban chuyên môn họp đúc kết công tác chuẩn bị cho Đại lễ Vesak 2019
- 222 - Phương thuốc của lòng vị tha
- 223 - Lời Phật dạy về đạo nghĩa trong gia đình
- 224 - HT.Từ Phong trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam
- 225 - Lời Phật dạy về cách quý trọng cuộc sống
- 226 - Pythagore và thuyết luân hồi
- 227 - Thường và vô thường
- 228 - Công tác chuẩn bị Đại lễ Vesak 2019 đang trong giai đoạn nước rút
- 229 - Báo hiếu cha mẹ theo lời Phật dạy
- 230 - Thanh lọc tâm để an lạc
- 231 - 1.500 đại biểu quốc tế dự Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 232 - Chí tâm vì người
- 233 - Soi lại mình
- 234 - Những cái vui trong đạo Phật
- 235 - Lời Phật dạy về 3 điều để trở thành người lương thiện
- 236 - Từ bi là cội nguồn và trái tim của Phật giáo
- 237 - Tha thứ để hóa giải oán thù
- 238 - Khai mạc Hội thảo khoa học về Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
- 239 - Niệm Phật và trị liệu
- 240 - Phật giáo TP.HCM họp đoàn tham dự Vesak LHQ 2019
- 241 - Tu chứng
- 242 - Tránh tạo nhân đau khổ theo lời Phật dạy
- 243 - Chân Không Diệu Hữu trong kinh Hoa Nghiêm
- 244 - Công bố chương trình chi tiết Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 245 - Đại lễ Phật đản Vesak 2019 sẽ bàn chuyện dùng công nghệ số có chánh niệm
- 246 - Bản năng - Hiểu thế nào cho đúng?
- 247 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những bài học sâu sắc giúp cuộc sống hạnh phúc
- 248 - Mở rộng con tim
- 249 - Sự khác biệt giữa Tưởng tri, Thức tri và Trí tuệ
- 250 - Nếp sống trí tuệ của người con Phật
- 251 - Suy nghĩ về khái niệm giải thoát sinh tử trong Đạo Phật
- 252 - Hội thảo khoa học về cư sĩ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền
- 253 - Bộ Công an kiểm tra công tác an ninh cho Vesak 2019
- 254 - Giá trị bình yên
- 255 - Dây trói bền chắc nhất
- 256 - Thông điệp Đại lễ Phật đản Vesak 2019 của Đức Pháp chủ GHPGVN Thích Phổ Tuệ
- 257 - Chánh niệm trước ác ma
- 258 - Oai lực của tâm từ
- 259 - Kiểm soát dục vọng qua góc nhìn Phật học và khoa học
- 260 - Phật giáo thế kỷ XXI
Đối diện với sự đau khổ đã được định chế hóa Phỏng vấn Giáo sư David R. Loy
- 261 - Phật dạy tâm bi tình yêu thương chân thật
- 262 - Hân hoan hướng về Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 263 - Điều phục ý căn
- 264 - Tránh xa 6 hành động làm hao tổn phúc đức
- 265 - Khoa học, nghệ thuật và tính tâm linh
- 266 - Lời Phật dạy sâu sắc về cách làm giàu chân chính
- 267 - Đốn ngộ và Tiệm ngộ trong Thiền tông
- 268 - Mười lợi ích khi tin Phật chân thật
- 269 - Lời Phật dạy về tác hại của việc uống rượu
- 270 - Các cấp độ nhận thức
- 271 - Diễn văn Đại lễ Phật đản PL.2563 – DL.2019 của Hòa thượng Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN
- 272 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam họp Quý 1 năm 2019
- 273 - Tu để được an lạc thân tâm trong kiếp này
- 274 - Thắng tri
- 275 - Tháng 7, bắt đầu ấn hành bộ Đại tạng kinh Việt Nam
- 276 - Tìm hiểu sự hình thành xe hoa, kiệu hoa Phật đản
- 277 - Ý nghĩa, nguồn gốc ngày đại lễ Vesak Liên hiệp quốc
- 278 - Họp báo trước thềm Đại lễ Vesak Liên hợp quốc 2019 tại Việt Nam
- 279 - Lời Phật dạy về tham, sân, si của con người
- 280 - Đại học Phật giáo Hungary thăm Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 281 - Thông tin chi tiết về công tác chuẩn bị Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 282 - Một cách tiếp cận chánh niệm và sự lãnh đạo có chánh niệm
- 283 - An approach to mindfulness and mindful leadership
- 284 - Hòa thượng Chủ tịch ICDV đến Việt Nam
- 285 - Lời Đức Phật dạy: Đi nhiều, khó tu!
- 286 - Có hiếu với mẹ cha tức là kính Phật
- 287 - Khai mạc Hội thảo Quốc tế chào mừng Đại lễ Phật đản LHQ Vesak 2019 tại chùa Tam Chúc
- 288 - Trọng thể khai mạc Đại lễ Phật đản - Vesak LHQ PL.2563 tại Việt Nam
- 289 - Hội thảo quốc tế chủ đề Vesak 2019 bằng Anh ngữ
- 290 - Toàn văn Tuyên bố Hà Nam 2019
- 291 - Bế mạc Đại lễ Vesak LHQ: Tuyên bố Hà Nam 2019
- 292 - Kinh hạt muối là gì?
- 293 - Vượt qua mười hai xứ
- 294 - Phương pháp tiếp cận Phật giáo về vấn đề phát triển kinh tế bền vững
- 295 - Vô ngã, tính Không và Khoa học Lượng tử
- 296 - Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi con người biết được lộ trình sinh tử của mình
- 297 - Long Thọ và Khoa học Lượng tử
- 298 - Thấy mọi thứ đang vận động để lặng yên
- 299 - Hạnh của đất
- 300 - Những nền tảng về quan điểm sinh thái của Thiền tông Phật giáo
- 301 - 12 câu hỏi về cuộc đời đáng suy ngẫm
- 302 - 9 cách thay đổi số phận khi áp dụng các giáo lý nhà Phật
- 303 - Suy tư về sự sống
- 304 - Thiền sư Norman cùng những lời khuyên về lời Phật dạy khi gặp khó khăn
- 305 - Lợi ích của sự biết đủ
- 306 - Mười lý do nên tu tập từ bi quán
- 307 - Tâm Minh Lê Đình Thám, biểu mẫu của người con Phật Việt Nam
- 308 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những lời khuyên nuôi dưỡng hạnh phúc
- 309 - Hiểu và Ngộ
- 310 - Trói buộc và giải thoát
- 311 - The Buddhist Analysis of the Significance of Meditation (bhāvanā) in Promoting Ethical Education in the Modern Society
- 312 - Tâm sinh tướng
- 313 - Văn hoá dung hợp cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo toàn cầu hiện nay
- 314 - Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo bằng
Chánh niệm giúp ngày ngày an vui
- 315 - Buddhist Approach to Mindful Leadership
through An Auspicious Day
- 316 - Thiền và tâm lý trị liệu
- 317 - Sống trong thực tại, bây giờ, và ở đây!
- 318 - Người học thiền thấu qua cửa sắc không
- 319 - Nước mắt và tâm từ bi của một vị thiền sư
- 320 - Như huyễn tam-muội
- 321 - Trí, bi và lạc trong kinh Lăng-già
- 322 - Đức Phật dạy buông bỏ những thứ tưởng là mãi mãi
- 323 - Hốt bụi ném người trên gió chỉ làm bẩn mình
- 324 - Lời Phật dạy sâu sắc về việc hãy sống trọn vẹn hạnh phúc trong hiện tại
- 325 - Không nên hủy nhục người tu hành chân chính
- 326 - Phản tưởng khổ là lạc
- 327 - Sức mạnh của niềm tin
- 328 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh và quan điểm về Phật giáo dấn thân
- 329 - Phương pháp hành thiền cơ bản
- 330 - Đức Đạt Lai Lạt Ma và những câu nói sâu sắc
- 331 - Phương pháp tiếp cận giáo pháp
- 332 - Chánh kiến đi hàng đầu
- 333 - Tu hành tánh Không trong Bồ-tát hạnh
- 334 - Nóng giận là lửa vô minh, lửa vô minh thì thiêu hủy rừng công đức
- 335 - Từ bi quán
- 336 - Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo bằng Chánh niệm giúp ngày ngày an vui
- 337 - Buddhist Approach to Mindful Leadership through An Auspicious Day
- 338 - Tại sao Đức Phật thường nói đến sự khổ đau?
- 339 - Khái niệm về cái chết theo quan điểm Phật giáo
- 340 - Tánh Không là giải thoát
- 341 - Vì sao đức Phật dạy ta nên kết bạn với người hiền trí
- 342 - Phật giáo và trí thức
- 343 - Bố thí, cúng dường cũng có năm bảy đường
- 344 - Chuyển hoá stress
- 345 - Thánh tẩy trần
- 346 - Nên chú tâm vào nội lạc
- 347 - Tam nghiệp và tịnh hóa nghiệp
- 348 - Pháp giới và Pháp giới Thể tánh
- 349 - Thể tánh của Tâm
- 350 - 7 tâm cần phát khởi khi thực hành sám hối
- 351 - Năm phương pháp đưa đến định tâm
- 352 - Phật giáo và đạo đức sinh học hiện đại
- 353 - Sự yên lặng của Đức Phật
- 354 - Lời Phật dạy sâu sắc về tác hại của lời nói dối
- 355 - Tản mạn chuyện sắc không
- 356 - Sự buông xuống sau cùng
- 357 - Bốn cấp độ thiền định
- 358 - Quán tâm trên tâm
- 359 - Thấy khổ để buông khổ
- 360 - Ánh sáng Như Lai
- 361 - Khách trọ trần gian
- 362 - Không bệnh giữa ốm đau
- 363 - Thiền chỉ và thiền quán
- 364 - Tất cả pháp đều là Phật pháp
- 365 - Tại sao có các tướng
- 366 - Tôi phải làm gì để cuộc sống hạnh phúc hơn?
- 367 - Chuyển hoá về Tịnh độ
- 368 - Hãy mỉm cười khi khó khăn đến gõ cửa
- 369 - Chánh kiến
- 370 - Câu chuyện người Kalama
- 371 - Pháp thoại từ khúc gỗ trôi sông
- 372 - Thường Bất Khinh
- 373 - Con đường đi đến Phật đạo
- 374 - Ăn chay
- 375 - Pháp giúp Bồ-tát tại gia thành tựu Bồ-đề vô thượng
- 376 - Muốn chết tốt, phải sống tốt
- 377 - Trí, bi và lạc trong kinh Lăng-già
- 378 - Khởi phát nguồn tâm
- 379 - Lấy thiện tâm giúp người, phúc báo muôn vạn kiếp
- 380 - Vô niệm
- 381 - Nghĩa "Như" của tất cả các pháp
- 382 - Bước thăng bằng trên đường không thăng bằng
- 383 - Quán huyễn trong Phật giáo Việt Nam
- 384 - Tính nhất quán xuyên suốt từ kinh Nguyên thuỷ đến kinh Đại thừa
- 385 - Khẩu nghiệp gây tổn thương người khác là một trong những nghiệp nặng nề nhất
- 386 - Căn bản triết lý và kinh điển của Thiền tông
- 387 - Nhờ lực của Bát-nhã
- 388 - Để Chánh pháp an trú lâu dài
- 389 - Khéo tu thì nổi
- 390 - Vụng tu thì chìm
- 391 - Quan điểm của Phật giáo về chiến tranh và xung đột
- 392 - Lành thay nếu được là học trò của Đức Phật
- 393 - Vai trò của Phật giáo đối với Tổng hạnh phúc quốc gia
- 394 - Mặc áo giáp đi xuyên qua lịch sử
- 395 - Thiền tông Việt Nam
- 396 - Viễn ly sanh y
- 397 - Đức Phật dạy pháp nhập Niết bàn ngay tại đây và bây giờ
- 398 - Phật đi khất thực
- 399 - Chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tự nhiên
- 400 - Vận dụng thiền quán vào xã hội hiện đại để góp phần xây dựng thế giới hòa bình an lạc
- 401 - Uẩn và Không
- 402 - Các Pháp duyên sinh, không thật
- 403 - Bát chánh đạo chính là Trung đạo
- 404 - Chánh niệm trong cuộc sống
- 405 - Thấy như huyễn tức là thấy Như Lai
- 406 - Quan hệ thực tiễn về nhân quả đạo Hiếu
- 407 - Thuyết lượng tử và sự di chuyển của tâm thức
- 408 - Như huyễn trong kinh Kim Cương
- 409 - Karl Marx & Thiền đi bộ
- 410 - Chữ Hiếu: Vẫn đi tìm một định nghĩa
- 411 - Thực tại là Chân như
- 412 - Uống nước nhớ nguồn
- 413 - Bốn ơn lớn mà người Phật tử cần nhớ
- 414 - Ngũ căn & ngũ lực
- 415 - Đi vào đời ác năm trược
- 416 - Những bình diện của tâm linh
- 417 - Tám ngọn gió
- 418 - Tinh thần hiếu đạo trong Kinh Địa Tạng
- 419 - Tri túc: Biết đủ, cách sống mang lại hạnh phúc
- 420 - Như Lai là người chỉ đường
- 421 - Quy trình của lòng nhân
- 422 - Tương ưng và an trụ
- 423 - HT.Thích Thanh Từ nói về "Vu lan mùa Báo hiếu"
- 424 - Nhà khoa học Albert Einstein và đạo Phật
- 425 - Phật tử và thiền
- 426 - Bất kỳ bạn ở đâu, giác ngộ ở đó
- 427 - Những kiến thức cơ bản về Luân hồi trong đạo Phật
- 428 - Chuyển hoá cuộc đời
- 429 - Tâm sân hận tạo nên bi kịch cuộc đời
- 430 - Nghiệp và nghiệp quả
- 431 - Gần đèn thì sáng
- 432 - Thấy biết như thật
- 433 - Tỉnh giác về cái chết
- 434 - Lời Phật dạy sâu sắc về việc hóa giải hận thù
- 435 - Nền tảng của niệm Phật
- 436 - Ba thân và mũ giáp
- 437 - Khổ đau lớn nhất đời người là gì?
- 438 - Quán tưởng
- 439 - 4 nỗi khổ mà mỗi người nên biết
- 440 - Nghiên cứu kinh Kim Cang phần Vô ngã
- 441 - Đức Phật dạy về 3 loại hạnh phúc
- 442 - Bố thí - Việc làm nhỏ mang giá trị lớn lao
- 443 - Lời Phật dạy sâu sắc về "Bạn"
- 444 - Bát Khổ: Chân lý thứ nhất bao quát Tứ Diệu Đế
- 445 - Nghệ thuật sống: Thiền Minh sát tuệ
- 446 - Lời Phật dạy về "Lòng tin"
- 447 - Nên đặt lòng tin như thế nào?
- 448 - Có pháp đốt cháy và pháp không đốt cháy
- 449 - “Sinh tử tức Niết Bàn” và ý nghĩa
- 450 - Vô ngã trong tư tưởng Phật giáo
- 451 - Sát sinh và hậu quả dưới góc nhìn của Phật giáo
- 452 - Niềm tin và trí tuệ
- 453 - Kho tàng của Phật giáo
- 454 - Giá trị bốn chân lý vĩ đại của Phật giáo: Tứ Diệu Đế
- 455 - Giữ tâm ý trong sạch
- 456 - Nhị đế là gì?
- 457 - Người trí biết nhớ ơn & báo ơn
- 458 - "Đau" phải chăng đã là "khổ"
- 459 - Trách nhiệm phổ quát
- 460 - Trầm tư ý nghĩa thực tiễn về Tịnh độ
- 461 - Tuỳ niệm pháp môn tu tập nhập pháp lưu
- 462 - Ngũ tâm hương
- 463 - Tất cả chúng sinh là mẹ
- 464 - Thiểu dục tri túc: Một cách sống hạnh phúc
- 465 - Chân lý Phật giáo là gì?
- 466 - Lời dạy về tình yêu đích thực của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 467 - Sự thật về con người
- 468 - Sự hấp dẫn của đạo Phật
- 469 - Gợi mở lối đi giác ngộ
- 470 - Tu hành như khúc gỗ trôi sông
- 471 - Tản mạn về chữ Hiếu hôm nay
- 472 - Ý nghĩa đời người
- 473 - Tâm này là Phật
- 474 - Không lấy cái tôi làm trung tâm
- 475 - 20 điều nhất định phải tu tập trong đời người
- 476 - Kẻ lọc vàng
- 477 - Tại sao lại có sanh tử
- 478 - Đại tạng kinh Việt Nam: Lại thắp lên niềm hy vọng
- 479 - HT.Thích Giác Toàn, Phó Chủ tịch HĐTS, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học VN: “Thực hiện Đại tạng kinh là sứ mệnh xuyên suốt của Giáo hội”
- 480 - Người xuyên tạc Như Lai
- 481 - Mở rộng thiện duyên
- 482 - Nhận diện đau khổ và diệt trừ đau khổ
- 483 - Chết là lẽ đương nhiên
- 484 - TP.HCM: Văn phòng Viện Nghiên cứu Phật học VN và Học viện Phật giáo viếng tang NT. Ngoạt Liên
- 485 - Bí quyết hạnh phúc theo lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 486 - Nghiệp chi phối đời sống nhân sinh
- 487 - 5 việc làm tạo quả báo xấu, ảnh hưởng lớn tới cả cuộc đời bạn
- 488 - Đức Phật giảng như thế nào về cái chết và quy luật sinh lão bệnh tử trên đời?
- 489 - Khéo tích công bồi đức
- 490 - Thư mời viết bài tham dự hội thảo khoa học : "Di sản Việt Nam - Ấn Độ: Mối quan hệ xuyên văn hoá"
- 491 - Hướng nội hướng ngoại
- 492 - Trở lại vạch xuất phát không phải là thảm họa, cùng lắm là chơi lại một lần nữa
- 493 - Vấn đề tâm linh dưới góc nhìn Phật giáo
- 494 - Phòng hộ sáu căn
- 495 - Suy ngẫm lời Phật dạy
- 496 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh với pháp thoại "Lắng nghe sâu vì hòa bình"
- 497 - Lời Phật dạy về nhân quả báo ứng
- 498 - Có sinh ắt có diệt
- 499 - Tu hành cần vững tâm
- 500 - Lời Phật dạy để gìn giữ giới hạnh
- 501 - Thư mời viết bài hội thảo khoa học "Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh: Lịch sử hình thành và phát triển"
- 502 - Kế hoạch hội thảo khoa học "Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh: Lịch sử hình thành và phát triển"
- 503 - Ý nghĩa Pháp Duyên khởi
- 504 - Buông xả hơn thua nhưng không im lặng
- 505 - Giáo lý Năm uẩn
- 506 - Công đức của việc trì kinh
- 507 - Như lý duyên khởi
- 508 - Sám hối như thế nào là đúng?
- 509 - Một câu chuyện về sức mạnh của lòng từ
- 510 - Thiền sư Huyền Quang và những đóng góp cho Phật giáo đời Trần
- 511 - Hiểu đúng "chữ khổ" trong Phật giáo
- 512 - 10 lời Phật dạy sâu sắc giúp thay đổi cuộc đời bạn
- 513 - Tuổi trẻ với hạnh nhẫn nhục
- 514 - Sống một mình
- 515 - Thoát ly khổ ách
- 516 - Phật giáo nhập thế và các vấn đề xã hội đương đại ở Việt Nam
- 517 - Niệm Phật
- 518 - Sự liên hệ giữa thế giới này và Tịnh độ Tây phương
- 519 - Phật dạy 20 câu thiền ngữ giúp cuộc sống an nhiên, vui vẻ
- 520 - Nghiệp ai nấy mang, duyên ai nấy nhận
- 521 - Nhận rõ chính mình
- 522 - Đạo Phật tiếp cận với đời sống
- 523 - Lời Phật dạy về quán vô thường
- 524 - Không tạo tác
- 525 - Phép tu im lặng
- 526 - Đức Phật và con người hiện đại
- 527 - Lời Phật dạy: Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với ta
- 528 - Viện Nghiên cứu Phật học VN tổng kết Phật sự 2019
- 529 - Đừng để "Phật giáo u buồn" như thế!
- 530 - Đời sống từ bi
- 531 - Làm thế nào để nuôi dưỡng từ bi tâm?
- 532 - Khó thay nghe Chánh pháp
- 533 - Phóng sinh chân chính
- 534 - Con người chân thật nơi chính mình
- 535 - Chân không diệu hữu tự tại thong dong
- 536 - Chân lý qua nghĩa duyên sinh mùa xuân
- 537 - Tỉnh thức giữa quần mê
- 538 - Xuân, vui với Hoà thượng Bố Đại
- 539 - Hoa tàn hoa nở chỉ là Xuân
- 540 - Xuân Di-lặc
- 541 - Mùa xuân trong đạo Phật
- 542 - Đón một mùa xuân an lạc
- 543 - Thư chúc tết xuân Canh Tý của Đức Pháp chủ GHPGVN
- 544 - Ý nghĩa cành mai ngày tết
- 545 - Đầu Xuân, bàn về lới khấn "Nam mô A Di Đà Phật"
- 546 - Phật pháp xây dựng thế gian
- 547 - Ngạ quỷ nghe kinh
- 548 - Lời Phật dạy: Cách để có được hành vi tốt
- 549 - Nobel Kinh tế 2019 từ góc nhìn Phật giáo
- 550 - Triết lý Cân bằng tự nhiên đoạt giải Nobel Y sinh 2019
- 551 - Tổng quan về Giới học
- 552 - Tổng quan về Định học
- 553 - Tổng quan về Tuệ học
- 554 - Đi xem hoa hậu
- 555 - "Không" có ý nghĩa gì?
- 556 - Minh và vô minh
- 557 - Tinh tấn trong đạo Phật khác với nỗ lực ở thế gian
- 558 - Thuyết pháp không vì tiếng tăm
- 559 - Khoa học và Phật giáo
- 560 - Tánh Không, Quang minh và Năng lực
- 561 - Phật giáo - tôn giáo của duy lý
- 562 - Thiền định Phật giáo và khoa sinh học
- 563 - Mục đích của đời người
- 564 - Tình yêu thương là liều thuốc tiên chữa bệnh
- 565 - Tinh tấn quá mức cũng không hẳn là tốt
- 566 - Ý nghĩa lợi tha
- 567 - Hương hoa cúng dường chư Phật
- 568 - Tính chất của nghiệp
- 569 - Chánh niệm để hoá giải căng thẳng
- 570 - Lòng lặng thì nghiệp yên
- 571 - Hạnh tu bố thí
- 572 - Lễ hội vào thành
- 573 - Tâm của người ngồi thiền
- 574 - Một đoạn nhân duyên
- 575 - Nhị đế và Tứ tất-đàn
- 576 - Các pháp là Chân Như vốn toàn thiện
- 577 - Hiểu về Sinh Tử - Cơ hội giải thoát ngàn vàng
- 578 - Nơi lưu trữ mộc bản Đại tạng kinh Hàn Quốc
- 579 - Hàn Quốc: Có 81.352 bản Cao Ly Bát vạn Đại Tạng kinh
- 580 - Đại Chánh Tạng - Lời giới thiệu
- 581 - Pháp đơn giản
- 582 - Đức Phật - Bậc thức tỉnh cho nhân thế
- 583 - Tứ đại trọng ân trong Phật giáo
- 584 - Mục đích cuối cùng của sự tu học là chấm dứt tái sinh
- 585 - Hạnh phúc là buông xả?
- 586 - Tư tưởng Trung đạo qua Bát bất
- 587 - Niệm Phật chớ sợ cười, đừng chờ hẹn
- 588 - Soi gương Chánh pháp
- 589 - Công đức chiêm bái Phật tích
- 590 - Không có kẻ chiến bại
- 591 - Thực hành pháp và tuỳ pháp
- 592 - Bảy pháp làm cho Chánh pháp tăng trưởng
- 593 - Im lặng như pháp
- 594 - Người ngu nghĩ là ngọt
- 595 - Như Lai thọ lượng
- 596 - Bảy pháp cung kính làm cho Chánh pháp tăng trưởng
- 597 - Ra mắt Ban Biên tập và ấn hành Thánh điển Phật giáo VN
- 598 - Tam pháp ấn và sự diệt khổ
- 599 - Thư thỉnh mời viết bài kỷ yếu Trưởng lão Hoà thượng Thích Phước Sơn
- 600 - Giáo pháp như chiếc bè qua sông
- 601 - Nimitta trong Thanh tịnh đạo
- 602 - Một tâm thanh tịnh
- 603 - Giá trị phổ quát của thiền & thuyết nghiệp của đạo Phật
- 604 - Phật huệ, Phật đức, Phật lực hằng hữu miên viễn
- 605 - Pháp thân của chư Phật
- 606 - Phàm tăng & Thánh tăng
- 607 - Phật dạy: Nhìn nước để thấy người
- 608 - Bốn hạng người đáng thân cận
- 609 - Độ nhất thiết khổ ách
- 610 - Một số lời dạy của Đức Phật về Hiếu Hạnh
- 611 - Báo hiếu trong hành vi tôn giáo của Phật tử
- 612 - Vì sao Đức Phật dạy ân đức cha mẹ thật khó báo đền?
- 613 - Trầm tư về đạo hiếu
- 614 - Chữ Hiếu cũng cần vun đắp
- 615 - Phật dạy: Hãy cúng dường cha mẹ
- 616 - Định lượng chữ Hiếu
- 617 - TP. HCM: Họp Ban Biên tập và Ấn hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 618 - Kính thuận với cha mẹ
- 619 - Đạo nghĩa thầy trò
- 620 - Sống theo lời Phật: Mạng sống vô thường
- 621 - Ý dẫn đầu các pháp
- 622 - Phật dạy pháp "trừ sầu lo"
- 623 - Lời Phật dạy cách đối mặt với kẻ tiểu nhân
- 624 - Lược sử Trúc Lâm Tam tổ
- 625 - Niềm tin vào Tam bảo và lòng tự tín của người Phật tử
- 626 - Biết lắng nghe pháp
- 627 - Mối tương quan giữa Đức Phật và thiên nhiên
- 628 - Hưởng thụ lạc bị Như Lai chê trách
- 629 - Pháp sanh diệt
- 630 - Sắp ra mắt ấn bản kinh Trường bộ & Trung bộ
- 631 - Biển cả và Phật pháp
- 632 - Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ra mắt ấn phẩm Kinh Trường Bộ và Kinh Trung Bộ
- 633 - Phóng sự: Ý Nghĩa Tam Tạng Thánh Điển Phật Giáo Việt Nam
- 634 - An Viên Focus: Hành trình Tam tạng Thánh Điển Phật giáo
- 635 - Viện Nghiên cứu Phật Học Việt Nam
- 636 - Cách đối trị sợ hãi theo quan điểm Phật giáo
- 637 - Kế hoạch phối hợp tổ chức hội thảo khoa học toàn quốc về " Phát huy vai trò Tăng, Ni Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc"
- 638 - Thư mời viết bài tham luận
- 639 - Lời Phật dạy: Hãy nhớ tinh tấn, chớ có lười biếng
- 640 - Khuyến khích tu pháp sai mắc tội vô lượng
- 641 - Suy tư & nhận biết
- 642 - Hà Nội: Nữ giới Phật giáo với lĩnh vực báo chí
- 643 - Biết pháp, biết nghĩa, biết thời
- 644 - Biết tiết độ, biết mình, biết hội chúng
- 645 - Thoát khỏi sợ hãi
- 646 - Biết sự hơn kém của người
- 647 - Tu tập cũng như giữ thành
- 648 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổng kết Phật sự 2020
- 649 - Mê tín hay không mê tín?
- 650 - Xuân trong cửa Thiền
- 651 - Thư chúc Tết xuân Tân Sửu của Đức Pháp chủ
- 652 - Hạnh phúc của người tu
- 653 - Đắm say trong dục vui ít khổ nhiều
- 654 - Ngón tay chỉ mặt trăng: Thông điệp kinh Lăng-già
- 655 - Cầu nguyện qua cái nhìn Duyên khởi
- 656 - Nói như hoa như mật
- 657 - Thư mời viết bài tham luận cho hội thảo quốc gia "Giáo hội Phật giáo Việt nam: sự hình thành và phát triển"
- 658 - Thông báo về việc phát hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 659 - Thông bạch v/v Ấn hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 660 - Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Lời chứng minh
- 661 - Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Lời giới thiệu
- 662 - Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Lời nói đầu
- 663 - Giáo hoá bình đẳng
- 664 - Đôi điều về học giới luật Phật giáo
- 665 - Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Phước Sơn (1938-2020)
- 666 - Thông bạch v/v Cúng dường Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 667 - DẪN LUẬN KINH TRƯỜNG BỘ
- 668 - DẪN LUẬN KINH TRUNG BỘ
- 669 - DẪN LUẬN KINH TƯƠNG ƯNG BỘ
- 670 - DẪN LUẬN KINH TĂNG CHI BỘ
- 671 - Ích lợi của việc sám hối
- 672 - Trị liệu bệnh khổ
- 673 - "Công ơn cha mẹ" theo lời Phật dạy
- 674 - Thiểu dục và tri túc trong kinh Di giáo
- 675 - Thành tựu chánh kiến
- 676 - Phật dạy:Nên nói cái gì và im lặng thế nào?
- 677 - Đã gieo trồng thiện căn dẫu chết cũng không sợ
- 678 - Nếu có 5 đức tính này thì người tu ở đâu cũng được thương kính
- 679 - Hướng đến thống nhất tổng mục lục cho Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 680 - Khai mạc hội thảo online "Giáo hội Phật giáo Việt Nam: 40 năm hội nhập và phát triển cùng đất nước"
- 681 - Ban Thường trực Ban Biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam họp với Trung tâm Pāli học
- 682 - Thiền Đại thừa và Tối thượng thừa
- 683 - Giữ giới như giữ rễ cho cây
- 684 - Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh khánh tuế Hòa thượng Thích Giác Toàn
- 685 - Để tâm giải thoát được thuần thục
- 686 - Viện Nghiên cứu Phật học VN chúc Tết Trưởng lão Hòa thượng Quyền Pháp chủ GHPGVN
- 687 - Viện Nghiên cứu Phật học VN sẽ tổ chức nhiều hội thảo trong năm 2022
- 688 - Sự mầu nhiệm của lòng biết ơn
- 689 - Viện Nghiên cứu Phật học VN tổ chức tổng kết nhiệm kỳ vào cuối tháng 10-2022
- 690 - Hòa thượng Thích Giác Toàn: "Thực hiện Đại tạng kinh là sứ mệnh xuyên suốt của Giáo hội”
- 691 - Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Phật học VN dâng hương tưởng niệm Hòa thượng Thích Minh Cảnh

Giới thiệu
Mục đích tu tập của Phật giáo là để đạt đến an bình nội tâm ngang qua kinh nghiệm giác ngộ; điều này được mô tả như là sự chứng đạt giải thoát hay Niết-bàn. Thuật ngữ Niết-bàn, được các Phật tử Theraveda sử dụng phổ biến, thường được chuyển dịch như là một trạng thái “dập tắt”. Nó đề cập đến việc đoạn trừ những chướng ngại tâm thức khác nhau, thường được gọi là các “phiền não”, mà về bản chất sanh khởi từ ba độc tham, sân và si. Giải thoát, ngược lại, một thuật ngữ mà những Phật tử theo truyền thống Đại thừa thường sử dụng, có một cách nhìn phần nào rộng hơn, khi nó đề cập không chỉ việc đoạn trừ một số trạng thái tâm mà xa hơn còn chỉ cho việc chứng đắc trí tuệ, được giải thích như là giải thoát khỏi sự trói buộc luân hồi sinh tử, cũng như những trói buộc của xã hội và lịch sử.
Do vì nhấn mạnh vào giải thoát cá nhân, Phật giáo thường bị xem như là một tôn giáo ẩn dật, không nghĩ đến những vấn đề xã hội. Điều này tất nhiên không phải đúng hoàn toàn. Lý tưởng Bồ-tát của Phật giáo Đại thừa, học thuyết Tịnh Độ và giáo lý về Di Lặc, thường xuất hiện ở Trung Quốc vào những thời kỳ bất ổn chính trị, đã vượt qua phạm vi cá nhân để gắn kết giáo pháp với xã hội thành một khối chung. Tuy nhiên thực tế rằng, ngày nay, Phật giáo hiếm khi nói đến đề tài công bằng xã hội trong ý nghĩa hiện đại, tức là về những vấn đề như nhân quyền, phân phối tài nguyên hợp lý, luật pháp công bằng, và tự do chính trị. Như ta thấy nơi những bản kinh Đại thừa, chẳng hạn như Duy Ma Cật sở thuyết kinh (Vimalakīrti-nirdeśa-sūtra), cụm từ được đề cập thường xuyên là “Khi tâm của ta tịnh thì xã hội cũng sẽ tịnh”1. Điều này nói với ta rằng Phật giáo có một khái niệm phần nào đơn giản liên quan đến những vấn đề xã hội: lợi ích chung có thể thu được thông qua việc đẩy mạnh đạo đức cá nhân2.
Tất nhiên không riêng gì Phật giáo ở trong tình trạng này. Hầu hết tất cả những triết học và tôn giáo cổ đại đều ít chú ý đến những vấn đề công bằng xã hội trong ý nghĩa hiện đại. Ngay cả Thiên Chúa giáo, tôn giáo đã nói đến những vấn đề xã hội từ buổi đầu, bản thân nó cũng không quan tâm đến những vấn đề về công bằng xã hội hay sử dụng thuật ngữ này trong những tài liệu chính thức mãi cho đến cuối nửa thế kỷ XIX. Sự thực, chỉ từ thế kỷ XVIII, công bằng xã hội mới nổi lên như một vấn đề quan trọng trong tư tưởng chính trị và triết học xã hội ở phương Tây. Do đó những khái niệm then chốt như quyền công dân, bình đẳng chính trị, và phân phối thích hợp các nguồn kinh tế chỉ được phát triển đầy đủ trong ba thế kỷ qua.
Tuy nhiên, tiến trình hiện đại hóa mà nó đã dẫn đến sự phát triển triết học xã hội ở phương Tây thì một cách trái ngược đã phát triển chậm chạp ở phương Đông. Khi trải nghiệm hiện đại hóa như là sự “Âu hóa” được khởi đầu bằng sự tương tác quân sự và chính trị với những chính quyền thuộc địa Tây phương, những trí thức phương Đông đã đánh mất niềm tin vào những giá trị truyền thống bản địa, đi đến xem chúng như là tàn dư của quá khứ, không còn thích hợp với những vấn đề hiện hành. Kết quả, những triết học và tôn giáo bản địa, như Phật giáo, đã bị bỏ rơi, khi người ta quay qua ủng hộ việc nghiên cứu tư tưởng phương Tây.
Tiến trình này đã bắt đầu đảo ngược chỉ gần đây, khi phương Đông bắt đầu nhận thức rõ hơn về giá trị văn hóa của mình; và một khuynh hướng tư tưởng mới đã xuất hiện, được quan tâm không chỉ để gắn truyền thống với những vấn đề hiện đại, mà cũng ở nơi việc định giá lại truyền thống trong việc tìm kiếm những giải pháp cho những vấn đề của xã hội hiện thời. Điều được gọi là “Phật giáo nhập thế” - mà nó cố gắng nói lên những vấn đề như môi trường, bình đẳng giới, nghèo đói - là một trong những nỗ lực đặc biệt hiện thời trong lĩnh vực này. Nhưng còn quá nhiều sai khác để xem nó như là một phong trào hợp nhất, và vẫn quá mới để phát triển một khung sườn lý thuyết cho sự dấn thân của Phật giáo với những vấn đề xã hội hiện thời.
Khó khăn cho việc phát triển một khung sườn như vậy có nguồn gốc không chỉ trong những thập niên đình trệ tri thức, mà một cách cơ bản hơn, ở trong chính bản chất của Phật giáo, là nghiêng về việc diễn thuyết giáo lý mang tính bản thể học nhằm mục đích giải thoát cá nhân thông qua sự chuyển đổi bên trong. Tất nhiên vấn đề này không riêng gì Phật giáo; tất cả mọi tôn giáo phải đối mặt với tình trạng nan giải trong việc cân bằng nhu cầu giải thoát cá nhân và sự nhập thế. Vì lý do này, tôi muốn đưa ra một vài đề xuất mang tính thăm dò đối với khái niệm “vô ngã”, một học thuyết cốt tủy của Phật giáo, có thể được sử dụng như thế nào để hình thành nên cơ sở cho một lý thuyết Phật giáo về công bằng xã hội mà nó không gây nguy hại cho tiêu điểm cơ bản của Phật giáo là tập trung vào giải thoát con người. Đầu tiên tôi sẽ chứng minh học thuyết vô ngã có thể cung cấp một nền tảng vững vàng cho công bằng xã hội Phật giáo như thế nào qua việc so sánh nó với một trong những học thuyết công bằng xã hội có ảnh hưởng nhất hiện nay, học thuyết của triết gia người Mỹ John Rawls. Trong khi thực hiện điều này, tôi sẽ đề xuất rằng chính bản thân Phật giáo hàm chứa khả năng tiềm tàng về một học thuyết công bằng xã hội, thích hợp với những nhu cầu xã hội hiện hành. Kế đến tôi sẽ giải thích làm cách nào khái niệm vô ngã có thể đáp ứng như một đường nối, cho phép các Phật tử dấn thân vào xã hội ngay khi đang theo đuổi mục đích giải thoát cá nhân.
Vô ngã và công bằng xã hội
Phật giáo có hàm chứa khả năng tiềm tàng cho một lý thuyết về công bằng xã hội thích hợp với những nhu cầu của xã hội hiện thời hay không? Thật thú vị khi xem xét câu hỏi này trong ánh sáng của tác phẩm A Theory of Justice của triết gia người Mỹ John Rawls, cuốn sách có ảnh hưởng sâu sắc, dường như trình bày đỉnh điểm của nhiều vấn đề quan trọng mà Phật giáo không đề cập. Mặc dù được xây dựng nhằm đạt lấy công bằng xã hội, lý thuyết của Rawls rõ ràng phi luân lý, bởi vì nó không thừa nhận khuynh hướng đạo đức riêng nơi cá nhân, và tương tự cũng không quan tâm đến việc chấp nhận một quyền uy siêu nghiệm hay thẩm quyền tôn giáo để thi hành khái niệm lợi ích xã hội của nó. Thay vào đó, nó tìm cách giải thích công bằng xã hội có thể được xây dựng dựa trên tư lợi cá nhân như thế nào, và vì thế ít tập trung vào cách hành xử cá nhân mà tập trung nhiều vào những thể chế xã hội để điều chỉnh cách hành xử đó. Bằng khả năng giải thích và sức thuyết phục của nó, tác phẩm là một chiến thắng mang tính hợp lý phương Tây.
Tuy nhiên tôi tin rằng, loại công trình xã hội duy lý của Rawls đem đến cho Phật giáo một cơ hội quan trọng, giúp làm sáng tỏ mối liên hệ chưa được phát triển của Phật giáo đối với vấn đề công bằng xã hội. Nhưng để thực hiện điều này, chúng ta trước hết phải thảo luận sơ qua học thuyết của Rawls.
Nói chung, những học thuyết công bằng xã hội của phương Tây đều bắt đầu với mục đích hợp pháp hóa và bảo đảm tự do cá nhân để cho mỗi cá nhân được theo đuổi những lợi ích riêng của mình. Một khái niệm con người kinh tế như vậy không chỉ là sản phẩm của những học thuyết kinh tế và xã hội mà nó khởi xuất từ xã hội tư bản và ủng hộ xã hội đó, mà còn có những gốc rễ sâu xa nơi truyền thống phương Tây trước chủ nghĩa tư bản. Cá nhân và xã hội dùng làm nền tảng cho học thuyết công bằng xã hội của Rawls là đại diện cho con người theo đuổi tư lợi, và xã hội mà nó bao hàm những cá nhân ấy. Đối với Rawls, công bằng không phải là một đức tính truyền cho con người một sự tiên nghiệm, mà khác hơn là một điều kiện chung cần thiết để duy trì xã hội. Theo Rawls, “Cho dù một xã hội là một công việc hợp tác vì lợi ích qua lại, nó triệt để được đánh dấu bằng một sự xung đột cũng như một sự nhận diện các lợi ích” (Rawls 1971, tr.126). Như vậy, để làm giảm đi những xung đột mà chúng tồn tại giữa những thành viên của xã hội, “những nguyên tắc là cần thiết để chọn lấy những thỏa thuận xã hội khác nhau mà chúng quyết định sự phân chia những lợi ích này và tán thành một thỏa thuận về phân phối hợp lý” (Rawls 1971, tr.126).
Tuy nhiên, Rawls thừa nhận rằng tính công bằng của những nguyên tắc này tùy vào tính công bằng của tiến trình mà theo đó những nguyên tắc này có thể được thuyết phục và đồng ý. Để đảm bảo tính công bằng của tiến trình này, Rawls định ra cái gọi là “vị trí gốc” cho những người được giao tạo ra những nguyên tắc, có nghĩa rằng những người tạo nên sự quyết định lý tưởng của họ không bị cưỡng ép bởi “những tình huống chuyên quyền hay cán cân tương quan của những lực lượng xã hội” (Rawls 1971, tr.120). Để bảo đảm không có sự cưỡng ép, Rawls xa hơn thừa nhận điều mà ông gọi là “màn che vô minh”, có nghĩa rằng người tạo ra quyết định của mình không hề biết vị trí của họ ở trong xã hội mà họ đang kiến thiết. Họ có thể được giáo dục tốt hoặc tồi, có tài hoặc đần độn, được trang bị để cạnh tranh hoặc không thể. Rawls tin rằng điều không chắc chắn về khả năng cạnh tranh của họ ở trong đấu trường xã hội này sẽ tự nhiên dẫn những người tạo nên quyết định mang tính giả thuyết của mình đi đến những luật lệ công bằng xã hội không vụ lợi, mà chúng sẽ bảo hộ những thành viên xã hội kém sức cạnh tranh và để bảo đảm một sự phân chia công bằng những nguồn tài nguyên cho tất cả. Thực hiện như vậy sẽ đảm bảo tư lợi của chính họ. Bởi màn che vô minh, động cơ mạnh mẽ nhất cho sự công bằng là khả năng mà bạn có thể trở thành bất cứ ai ở trong cộng đồng.
Về mặt phương pháp luận, học thuyết công bằng xã hội của Rawls được đặt cơ sở trên xu hướng tạo dựng đạo đức: nương theo truyền thống triết học phương Tây, đặc biệt là Kant, ông phát triển một tập hợp những giả định đạo đức trong khi vẫn ở bên trong phạm vi của một chủ nghĩa kinh nghiệm tuyệt đối. Tuy nhiên tôi nghĩ rằng tác phẩm của Rawls cung cấp một vài gợi ý thú vị về cách xây dựng một khung sườn lý thuyết cho một học thuyết công bằng xã hội của Phật giáo. Tất nhiên không phải rằng quan điểm của Phật giáo tương hợp với học thuyết của Rawls, mà rằng tác phẩm của triết gia phương Tây này cung cấp cho chúng ta một cách thức có tính kích thích để liên kết những quan tâm mang tính bản thể học của Phật giáo với thế giới hiện tượng tương tác xã hội. Có nghĩa rằng, nó giúp làm sáng tỏ mối tương quan nơi Phật giáo, giữa việc tập trung vào tự tính và giác ngộ cá nhân - một mối quan tâm mang tính bản thể học - và sự cần thiết nghĩ về cách hành xử hàng ngày của hành giả Phật giáo trong xã hội - một mối quan tâm có tính hiện tượng.
Thoạt nhìn, chủ nghĩa duy lý phi luân lý mà trên đó Rawls đặt cơ sở lý thuyết công bằng xã hội của ông có thể dường như là điều rất xa lạ với Phật giáo; nhưng tuy thế cho thấy có một vài nối kết đáng ngạc nhiên. Học thuyết vô ngã của Phật giáo, khi được xét ở khía cạnh cá nhân và vị trí của cá nhân ấy ở trong cộng đồng, thật sự trở thành một năng lực xã hội rất mạnh mẽ: một cách giải thích rộng hơn về tính vị kỷ. Tức là, theo Phật giáo, bản ngã cá nhân được cho là tương tác và bao gồm tất cả những bản ngã khác thông qua học thuyết duyên khởi. Và điều này mang chúng ta đến một điểm tương giao thú vị với Rawls; bởi vì nếu “màn che vô minh” có tính giả thuyết và khả năng rằng “tôi có thể trở thành bất cứ ai ở trong cộng đồng” là điểm khởi đầu cho khái niệm công bằng của ông, thì Phật giáo đưa ra một điểm tương đương qua khái niệm vô ngã - tức là quan niệm rằng “tôi là mọi người ở trong cộng đồng”.
Tôi tin rằng học thuyết vô ngã của Phật giáo như vậy có thể đáp ứng như một điểm phóng cho một lý thuyết về công bằng xã hội hợp lý có sức thuyết phục giống như điều mà Rawls đề xuất. Nhưng để điều này thực thi được, Phật giáo phải tìm cách vượt ra khỏi việc diễn thuyết kinh điển mang tính bản thể truyền thống và những triết thuyết mang tính kinh viện - tập trung vào chuyển đổi cá nhân và tìm kiếm giải thoát bản thân cá nhân; Phật giáo cần tập trung vào việc diễn thuyết lĩnh vực xã hội hiện tượng - có nghĩa là chính trị, kinh tế và luật. Trong ý nghĩa đó, học thuyết vô ngã, quan niệm rằng tôi là mọi người ở trong cộng đồng, có thể trở thành con đường lý thuyết mà qua đó nhà tư tưởng Phật giáo từ lĩnh vực diễn thuyết mang tính bản thể bước đến lĩnh vực diễn thuyết mang tính hiện tượng.
Tất nhiên, những khác nhau giữa mô hình công bằng xã hội của Rawls và những gì mà một mô hình Phật giáo cuối cùng được phát triển sẽ là điều đáng chú ý. Hầu như chắc chắn, mô hình Phật giáo sẽ ít nhấn mạnh vào những thể chế xã hội mà nhấn mạnh nhiều vào lối hành xử cá nhân, đặc biệt nhất là vào những phẩm chất con người chẳng hạn như lòng từ bi và rộng lượng - những phẩm chất được xem là góp phần cho việc tìm đến giác ngộ. Thực sự, sự thật này chỉ ra một sự bất đồng chung cuộc và tất yếu giữa loại công trình xã hội duy lý của Rawls và Phật giáo. Đối với Rawls, đạt đến công bằng xã hội chính nó là một mục đích, và những quan tâm triết học của ông dừng lại ở đó. Mỗi khi công bằng xã hội được hoàn tất, thì không còn gì để nói thêm nữa. Hiển nhiên, điều này không phải là cơ sở đối với Phật giáo, khi nó tập trung vào mối quan tâm tối hậu là giác ngộ tự thân. Học thuyết vô ngã có thể đáp ứng như một con đường lý thuyết từ việc diễn thuyết mang tính bản thể đến hiện tượng, nhưng nó phải hành động vừa là lối vào và vừa là lối ra. Liên quan với lĩnh vực công bằng xã hội ở mặt hiện tượng hẳn đưa Phật giáo trở lại diễn thuyết bản thể học và sự tìm kiếm giác ngộ.
Vô ngã và Bồ-tát: chữa trị mình bằng chữa trị người
Như được đề cập từ đầu, tôi tin rằng khái niệm vô ngã có thể được sử dụng để nối kết mục đích công bằng xã hội và giải thoát cá nhân. Nhưng để đưa ra cách thức, chúng ta phải quay trở lại thảo luận những quan điểm về khổ của Phật giáo, cách chữa trị khổ đau, và lý tưởng Bồ-tát; chỉ khi ấy mới có thể làm sáng tỏ vấn đề công bằng xã hội và việc tìm kiếm giác ngộ cá nhân có thể thật sự đáp ứng để gia cố lẫn nhau như thế nào.
Trong Phật giáo, tiến trình phát triển tâm linh thường được so sánh với việc chữa trị bệnh. Thánh đế đầu tiên nói rằng “cuộc đời là khổ”, nhưng trong quan điểm của Phật giáo, khổ đau có thể được chữa trị nếu biết áp dụng phương thuốc đúng. Khổ đau xuất phát từ những tham muốn căn để của chúng ta, mà chúng thường được đề cập đến như là “khát ái”. Bởi vì bản chất tham dục si mê nói chung, “khát ái ” này - mà nó gây nên căn bệnh khổ của con người, thường được đánh đồng với vô minh. Tất cả những tật bệnh khác chỉ là những triệu chứng của vô minh căn để này. Triệu chứng chính là việc chấp thủ vào những đối tượng bên ngoài và vào cái được gọi là bản ngã bên trong chúng ta.
Dựa trên sự chẩn đoán này, Đức Phật đưa ra giá trị của một phương thuốc. Ngài tin rằng giác ngộ hay hạnh phúc, như là đối nghịch với khổ đau, vốn có trong mỗi con người; và điều này muốn nói rằng hạnh phúc có thể đạt được bằng việc chữa trị những gốc bệnh bên trong chúng ta.
Như được đề cập đầu bài viết, nhấn mạnh của Phật giáo vào chữa trị bản ngã - tìm kiếm giác ngộ - là lý do chính tại sao Phật giáo không phát triển một triết học xã hội hoàn thiện. Và tuy nhiên, mặc dù Đức Phật không hề có ý tạo nên một hệ tư tưởng chính trị, chắc chắn Ngài không bao giờ không để ý đến tha nhân. Sau khi giảng dạy cho các đệ tử và giúp họ chứng đạt giác ngộ, Ngài đã thúc giục họ lên đường giảng dạy cho những người khác: “Này các Tỳ-kheo, hãy lên đường vì an lạc của nhiều người, vì hạnh phúc của nhiều người, vì lòng từ bi với đời, vì lợi ích, an lạc và hạnh phúc của chư thiên và loài người. Và các vị không nên hai người đi cùng một hướng”3.
Những Phật tử đầu tiên đã hiểu thông điệp này có nghĩa rằng Đức Phật khuyên những đệ tử của mình nên làm việc vì người khác, nhưng nó cũng được giải thích theo nghĩa rằng để giúp đỡ người khác chúng ta trước hết phải chứng đạt giác ngộ và nhờ đó bệnh được chữa khỏi - một quan điểm được đề cập một cách rõ ràng trong một châm ngôn của Phật giáo: “Một người bệnh thì không thể chữa bệnh cho người khác”. Kết quả, những Phật tử mà họ dành hết thời gian cho việc chữa trị bản thân, đã phần nào trở nên thụ động trong lĩnh vực xã hội.
Tuy nhiên, như được nói từ đầu, sẽ là ngây thơ để cho rằng Phật giáo không chú ý đến chiều hướng kinh nghiệm con người giữa những cá nhân. Niềm tin ban đầu rằng một người bệnh thì không thể chữa bệnh cho người khác đã được chuyển đổi một cách triệt để bằng lý tưởng Bồ-tát, điều đã xuất hiện trong Phật giáo Đại thừa về sau. Hình thức tôn giáo mới này, Bồ-tát, thể hiện môi trường tôn giáo-xã hội mới tại thời điểm khi Phật giáo Đại thừa xuất hiện ở Ấn Độ.
Ai chữa bệnh?
Một vị Bồ-tát, theo định nghĩa, thường được đề cập trong các kinh Nguyên thủy như là hiện thân của những tiền thân Đức Phật. Trong nhiều kiếp tái sinh, Bồ-tát đã xuất hiện trong nhiều hình thức hiện hữu khác nhau: có khi là một con thú, có khi một con người, có khi một quý tộc và cũng có khi là một thường dân. Những câu chuyện về cuộc đời của chư Bồ-tát được tập hợp ở trong Jākata. Tuy nhiên, những Phật tử Đại thừa nhận thấy rằng những câu chuyện tiền thân của Đức Phật không chỉ là sự ghi chép những việc quá khứ, mà xa hơn còn là những tấm gương để noi theo trong hiện tại. Những ai thực hành theo những hạnh nguyện của Đức Phật trong những kiếp quá khứ cũng có thể trở thành những vị Bồ-tát.
Đối với mục đích của chúng ta ở đây, tầm quan trọng cốt tủy của lý tưởng Bồ-tát trong Phật giáo Đại thừa là rằng, chư Bồ-tát chữa trị bản thân bằng chữa trị cho người. Chúng ta tìm thấy thông điệp sau trong kinh Kim cang tràng (Vajradhavaja):
Một vị Bồ-tát phát nguyện: Tôi nhận lấy cho mình mọi gánh nặng khổ đau. Tôi quyết tâm thực hành điều ấy. Tôi sẽ nhận chịu điều đó… Tôi phải gánh lấy gánh nặng khổ đau của tất cả chúng sinh bằng bất cứ giá nào… Tôi phải cứu lấy hết thảy thế giới chúng sanh, giúp họ thoát khỏi nỗi sợ hãi về sinh, sợ hãi già, sợ hãi bệnh, và sợ hãi chết. (Conze, 1964, tr.131).
Đây không chỉ là lòng từ bi dành cho những chúng sanh cần cứu giúp. Đối với chư Bồ-tát, cốt tủy của học thuyết vô ngã, mà nó được nhấn mạnh từ buổi đầu Phật giáo, là sự thực rằng không có sự sai khác giữa Bồ-tát và chúng sanh. “Vô ngã” trong Phật giáo không chỉ là việc phủ nhận một “bản ngã” thật hữu, có thể xem như là “linh hồn” trong truyền thống phương Tây, mà nó còn hàm ý rằng “ta” và “người” là bất nhị, và mở rộng phạm vi hiện hữu của chúng ta vượt ra khỏi biên giới tự ngã, để bao hàm lấy biên giới của những chúng sinh khác. Những chúng sinh khác, đối với Bồ-tát, không có gì khác hơn là việc mở rộng sự hiện hữu của mình. Ngài ôm lấy tất cả những chúng sinh, bao gồm không chỉ “tôi”, “bạn”, mà cả “họ”.
Khái niệm vô ngã như vậy mở ra con đường đưa đến nhận thức xã hội và sự cần thiết của việc dấn thân. Duy Ma Cật (Vimalakīrti), một mẫu Bồ-tát Đại thừa điển hình, đồng nhất bệnh của tất cả chúng sanh với bệnh của mình, khi nói: “Tôi bệnh bởi tất cả chúng sanh bệnh; khi bệnh của tất cả chúng sanh được chữa khỏi thì bệnh của tôi cũng sẽ được chữa khỏi”4. Vì lý do này, ông đã hoãn lại việc chứng ngộ và chọn lựa tái sanh trở lại nhiều lần cho đến khi mọi người đạt được giải thoát. Giá trị tâm linh của việc chọn lựa này nằm nơi mối liên hệ tích cực ở nơi xã hội và quan niệm rằng xã hội chỉ là việc mở rộng kinh nghiệm của chúng ta. Sự thực, Duy Ma Cật đã hướng dẫn chư Bồ-tát chuyển đổi nỗi khổ tật bệnh thành điều tích cực, đưa đến phát sinh điều lành, sự tinh cần:
Chính vì bản thân có bệnh nên vị ấy cần thương xót tất cả những người mắc bệnh. Vị ấy thấu rõ khổ đau từ vô lượng kiếp quá khứ, vì vậy cần nghĩ đến việc làm lợi ích tất cả chúng sanh. Vị ấy cần suy niệm về đời sống thanh tịnh. Thay vì sinh buồn khổ phiền não, vị ấy cần thường xuyên phát khởi sự tinh tấn5.
Ở đây chúng ta thấy rằng kinh nghiệm khổ đau được chuyển thành tiềm năng cứu chữa những người khác: không có kinh nghiệm bệnh chúng ta không thể cứu chữa người khác. Ở điểm này Raoul Birnbaum nói một cách rõ ràng:
Đối với chư Bồ-tát…, kinh nghiệm khổ đau sẽ không phải là một yếu tố cản trở mà thay vì vậy là một chất xúc tác, mà chức năng cuối cùng của nó là làm phát khởi tâm Bồ-đề và thực hiện con đường tâm linh. Thay vì chịu khổ đau, Bồ-tát tìm cách giải thoát khổ đau thân xác của mình bằng cách sống trong pháp lạc Niết-bàn, bệnh tật đối với Bồ-tát trở thành điều công bằng vĩ đại, nhắc ngài nhớ đến tình huynh đệ cốt tủy của con người vốn có mặt trong khổ đau tật bệnh mà tất cả đều dự phần. Ý thức về sự nối kết của mình với tất cả chúng sanh, Bồ-tát phát khởi thệ nguyện cứu độ chúng sinh. (Birnbaum 1979, tr.14).
Sự thực, dường như Bồ-tát thậm chí còn đón nhận hay tìm kiếm trải nghiệm bệnh tật. Chẳng hạn chúng ta đọc thấy đoạn này nơi kinh Kim cang tràng:
Với lòng kham nhẫn, tôi sẽ trải qua tất cả những tình cảnh khổ đau, được tìm thấy nơi bất kỳ quốc độ nào, tất cả nơi chốn khổ đau nào… Tôi quyết định ở lại nơi mỗi tình cảnh khổ đau trong vô lượng kiếp; và nhờ vậy tôi sẽ giúp tất cả chúng sinh giải thoát khỏi tất cả những tình cảnh khổ đau có thể được nhìn thấy. (Conze, 1964, tr.131)
Tại sao Bồ-tát quyết định nhận lấy khổ đau của người khác? Điều này có thể khiến ngài giúp họ và như vậy hướng dẫn họ, và cũng như cuối cùng bản thân mình, đi đến giác ngộ bằng cách nào? Chính bởi việc dung chứa hết thảy trải nghiệm của những chúng sinh khác, điều tất yếu đem lại cho họ bệnh khổ, khiến Bồ-tát có thể thấy mình đồng nhất hoàn toàn với họ. Luôn kinh nghiệm về bệnh khổ của họ, và như vậy nhận ra sự gắn bó thiết yếu với họ, là phương tiện duy nhất mà nhờ đó Bồ-tát có thể phát triển trí tuệ và từ bi, những phẩm chất mà Bồ-tát cần để chỉ cho người khác thấy được nguyên nhân bệnh khổ của họ. Tương tự, Bồ-tát có thể dùng những phẩm chất tương tự là trí tuệ và từ bi để tìm hiểu tại sao mình cũng chịu khổ đau.
iển nhiên, việc thảo luận ở trên được bám sát ở mức độ triết giáo, mà không phải là triết học xã hội. Bồ-tát tìm cách chữa trị chính khổ đau của mình bằng việc chứng đắc giác ngộ, nhưng bởi hiểu biết sâu sắc của mình về học thuyết vô ngã, Bồ-tát nhận ra rằng để thực hành như vậy trước hết ngài phải cứu giúp tất cả những chúng sanh khác. Điều này do đó đưa đến một sự dấn thân tích cực với nỗi khổ của “kẻ khác”, và xa hơn nữa, mong muốn tìm kiếm cảm hứng tự thân trong cuộc đấu tranh chống lại khổ đau nói chung.
Cho dù quan tâm ở đây rõ ràng mang tinh thần triết giáo, thì cơ sở cho một học thuyết công bằng xã hội mới cũng rõ ràng hiển nhiên. Tất cả điều chúng ta cần là chuyển từ mức độ bản thể hay triết giáo xuống mức độ hiện tượng hay xã hội. Mỗi khi chúng ta giải quyết được sự chuyển dịch này, học thuyết vô ngã cung cấp nền móng mà chúng ta cần, bởi vì nó ấn định tính tương tác tùy thuộc của tất cả mọi thành viên xã hội và bản chất cùng gánh chịu tất cả mọi loại khổ đau: tinh thần, thân thể, cảm xúc, và kinh tế. Hiểu cách khác: Giống như những nhà sáng lập học thuyết của Rawls, để đảm bảo tính công bằng cho những điều luật của mình, người ta buộc phải tưởng tượng mình có thể trở thành bất cứ ai ở trong xã hội, học thuyết vô ngã thực sự đòi hỏi những Phật tử cần xem họ là mọi người trong xã hội. Những hàm ý xã hội của quan điểm này tất nhiên mạnh mẽ: sự đói nghèo của anh trở thành sự đói nghèo của tôi; thảm kịch của chị cũng là thảm kịch của tôi. Và khi được kết hợp với mô hình nhập thế tích cực theo lý tưởng Bồ-tát, mà nơi đó sức khỏe của con người có được nhờ giúp đỡ kẻ khác, chúng ta bất ngờ thấy mình là một nhân tố căn bản vững chắc cho hành động xã hội.
Một học thuyết chi tiết về công bằng xã hội của Phật giáo bao hàm điều gì? Một xã hội công bằng có gì tương hợp với quan điểm Phật giáo? Đây rõ ràng là những câu hỏi vô cùng phức tạp, vượt ra khỏi phạm vi bài viết này. Mục đích của tôi ở đây là chỉ ra rằng những câu hỏi này có thể được hỏi từ một quan điểm Phật giáo, và sự thực rằng phải cấp thiết đặt ra; song, việc nỗ lực tìm câu trả lời trong thực tế là quá chậm.
Sungtaek Cho
Vô Ưu dịch
Nguồn : giacngo.vn
Nguồn: Journal of Buddhist Ethics 7 (2000): tr. 76-85
(1) T. 475 維摩詰所說經/Duy Ma Cật sở thuyết kinh, 538c. Ở bản dịch của tôi (Sungtaek Cho), tôi dịch thuật ngữ Buddhkṣetra (Phật độ) là “xã hội”, mà tôi nghĩ là không quá lệch với nghĩa gốc, và đem lại cho từ gốc một nghĩa từ thích hợp hơn trong ngữ cảnh thảo luận này.
(2) Chúng ta có thể xem “chủ nghĩa cầu toàn” này và khái niệm của Khổng Tử về công bằng cũng thuộc phạm trù này. Một khái niệm hoàn hảo nhất về công bằng có nguy cơ làm giới hạn những tự do con người và hệ thống công bằng xã hội. Đối với tôi dường như rằng chủ nghĩa cầu toàn là một trong những đặc tính của khái niệm công bằng cổ đại, cả ở Đông và Tây. Tương đồng với Plato, Bà-la-môn Ấn Độ đã xem mục đích của hệ thống giai cấp như là thực hành công bằng xã hội đúng đắn. Một trường hợp cực đoan về khái niệm công bằng xã hội triệt để có thể tìm thấy trong Bhagavad Gītā, một tác phẩm kinh điển của Bà-la-môn giáo. Ở giữa trận chiến, Arjuna phân vân là chàng ta có nên giết người anh em của mình hay không, dù là vì sự công bằng; hiện thân Krishana đã bảo với chàng ta rằng bổn phận chiến sĩ thuộc đẳng cấp Kshatriya của chàng phải được đặt lên trước đạo đức cá nhân. Cần lưu ý rằng, từ “Dharma” trong tiếng Sanskrit có nghĩa vừa là “công bằng chính trực” và vừa là “bổn phận”.
(3) I. B. Horner, trans., The Book of the Discipline, vol. IV, 28.
(4) T 475, 維摩詰所 說 經, 544B.
(5) T 475, 維摩詰所 說 經, 544C.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- T 475 維摩詰所 說 經, compiled in the Taishō shinshū daizōkyō, vol. 14, P. 537-557.
- Birnbaum, Raoul, The Healing Buddha. Boston: Shambala, 1979.
- Conze, Edward, et al., ed. Buddhist Texts Through the Ages. New York and Evanston: Harper Torchbooks, 1964.
- Horner, I. B, The Book of the Discipline, Vol. IV, Sacred Books of the Buddhist, vol. 30, London: Pāli Text society, 1966.
- Rawls, John, A Theory of Justice, Cambridge: Harvard University Press, 1971.