Trong một giai thoại truyền thừa thiền danh tiếng, Thần Tú, vị đệ tử sáng giá nhất của Ngũ tổ Hoàng Nhẫn, đã soạn một bài thơ, có ý đối chiếu giữa tu tập thường xuyên với quét bụi liên tục. Khi Huệ Năng, vốn không biết chữ, chợt nghe một đứa trẻ đọc bài thơ đó, ông đã soạn một bài của riêng ông, với đoạn cuối: “Nếu mọi sự là không, ở đâu để cho bụi bám vào?”.
Sau này, Huệ Năng trở thành Lục tổ Thiền tông. Cái Không mà ngài kinh nghiệm là vô niệm, để chỉ tâm không bị cấu uế bởi bụi của suy nghĩ. Người thợ rừng Huệ Năng có lẽ là người thầy đầu tiên dạy vô niệm như là giáo lý trung tâm của Thiền tông Phật giáo.
Vô niệm được phản ánh nơi những hành giả tiếp cận Thiền tông ngay trong những phương pháp thiền căn bản, chẳng hạn như đếm hơi thở. Thiền giả hy vọng rằng với công phu liên tục, những ý nghĩ lan man sẽ lắng xuống, từ đó cảm nhận một trạng thái tư tưởng ítlanmanrờirạc–haynhiềuvôniệm–nhưlàbằng chứng có ý nghĩa về thực tập thiền. Thật vậy, từ “vô niệm” tự nó nói lên nhiều ý nghĩa. Trong tiếng Hán, vô nghĩa là không, không có, trống rỗng, và niệm quy cho ý nghĩ, tư tưởng hay đối tượng của tâm. Ghép chung lại là vô-niệm”.
Vậy thì, vô niệm phải chăng tương đương với trạng thái của tâm ở đó mọi suy nghĩ đều ngưng bặt? Nếu đó là mục tiêu của thực tập thiền, vậy thì cái gì là khác biệt giữa một bậc thầy giác ngộ với một tảng đá, cả hai đều vô niệm? Nói một cách đơn giản, có suy nghĩ hay không suy nghĩ sau giác ngộ?
Để trả lời cho những câu hỏi then chốt này, trước tiên ta có thể đọc một số đoạn trong kinh Pháp bảo đàn của ngài Huệ Năng, một kinh đặc sắc nhất của truyền thống Thiền tông. Sau đó, thật là giá trị để khai phá ý tưởng “vô lậu” như được trình bày trong những lời dạy của Thiền sư Hongzhi (Hongzhi Zhengjue, Hoằng Trí Chánh Giác, 1091-1157) của phái Tào Động, tiền thân của Soto Zen, về thiền soi sáng tĩnh lặng. Giáo pháp vô lậu giúp chúng ta phân biệt giữa ý nghĩ tịnh hóa và ý nghĩ lan man.
Ở một trong những đoạn then chốt của kinh Pháp bảo đàn, Lục tổ dạy: “Này học chúng, đây là truyền thống thiền phái của ta, xem vô niệm như là đối tượng mà ta nhắm tới.”Trong bản dịch của kinh nói trên, Wong Mou Lam chọn dịch vô niệm như là “idealessness”, “thoughtlessness”, hay “giải thoát ra khỏi vọng tưởng.” Ngài Huệ Năng đi xa hơn:
Này học chúng, trong hệ thống đó của ta, cái thấy siêu việt (trí tuệ bát-nhã) sản sinh tám vạn bốn ngàn con đường trí huệ, bởi lẽ đó là con số cấu nhiễm mà chúng ta đối đầu; nhưng khi một người thoát khỏi cấu nhiễm, trí huệ tự nó sinh khởi, và không tách biệt với tinh túy của tâm. Những ai biết được pháp đó sẽ giải thoát khỏi vọng tưởng. Thoát khỏi mê đắm bởi ý nghĩ riêng, thoát khỏi bám víu tham dục, thoát khỏi sai lầm, đặt tinh túy của chân như vào mọi hoạt động, dùng trí tuệ bát-nhã để quán chiếu và giữ thái độ không dửng dưng mà cũng không ràng buộc vào mọi sự - đó là những gì được diễn tả khi mỗi người thực hiện tinh túy tâm, hòng đạt Phật quả.
Ngài Huệ Năng chỉ ra rằng không có cái gì là nhu cầu để săn đuổi sau trí huệ. Càng hơn thế, khi một người được giải thoát khỏi tám vạn bốn ngàn cấu nhiễm (đơn giản con số đó chỉ nói đến số lượng lớn), tám vạn bốn ngàn trí huệ tự nó sinh khởi, tất cả những thứ đó là những biểu hiện tinh túy của tâm. Khi ngài nói: “Người nào hiểu pháp đó sẽ thoát khỏi vọng tưởng,” ngài đã quy vào trạng thái vô niệm, ở đó tâm không lưu giữ đối tượng và hình ảnh của quá khứ và tương lai. Tâm không bị ràng buộc vào bất cứ trường hợp đặc biệt nào của ý nghĩ, hay vào kinh nghiệm quá khứ trong bất cứ ngõ ngách nào làm ngột ngạt vận động tự do của tâm. Không còn có những ý nghĩ tự mãn hay cái nhìn sai lầm của bất cứ loại nào. Khi liên hệ với mọi sự trên thế giới, mọi người không giữ sự thiên vị cố định nào. Không có ràng buộc lẫn buông bỏ.
Như đã nói ở trên, làm giảm thiểu hay loại trừ sự sinh khởi của ý nghĩ lan man thường được xem như dấu hiệu của thành tựu trong thực tập thiền, và trong thời của Huệ Năng, một số giảng sư biện hộ sự ngưng nghỉ của mọi ý nghĩ như là mục tiêu tối thượng. Nhưng Huệ Năng xem những quan điểm đó là dị giáo, và nói: “Cũng có một tầng lớp những người dại dột chỉ ngồi tĩnh lặng và cố gắng giữ cho tâm trống rỗng. Họ cố nín suy nghĩ về bất cứ điều gì và gọi chuyện đó là lớn lao. Vì quan điểm dị giáo của họ, thật khó để nói chuyện với họ”.
Một tâm giác ngộ, nếu thật sự đáng được gọi như thế, rõ ràng là khác với tâm trống rỗng hoặc tâm thiểu năng bởi những cố gắng lớn làm im bặt mọi ý nghĩ. Vô niệm là thoát ra khỏi những ý nghĩ lan man của sự cấu nhiễm. Đó không phải là kết thúc của chức năng suy nghĩ của não bộ. Huệ Năng phân tích xa hơn về bản chất của giác ngộ khi ngài diễn tả vô niệm là thấy và biết mọi pháp với tâm ra khỏi mọi ràng buộc. Vô niệm lan tỏa khắp mọi nơi, và vì thế nó không dính chặt vào đâu. Điều ta phải làm là thanh lọc tâm làm sao để sáu dạng của thức khi đi qua sáu căn thì không bị cấu nhiễm mà cũng không ràng buộc với sáu trần. Khi tâm làm việc một cách tự do mà không có chút trở ngại, và vẫn ở trạng thái đó để đến và đi, ta đạt được định của trí tuệ bát-nhã (samadhi of prajna) hay giải thoát. Một trạng thái như thế được gọi là chức năng của vô niệm. Trái lại, tự kiềm chế suy nghĩ về mọi thứ, thì mọi ý nghĩ đều bị loại trừ, làm như vậy là pháp bị trôi đi, và đó là quan điểm sai lầm.
Đi xa ra khỏi cái tâm trống rỗng của mọi suy nghĩ, tâm vô niệm có thể thấy và biết mọi pháp giải thoát khỏi mọi ràng buộc. Nó tỏa ra khắp nơi, vận động tự do và uyển chuyển mà không bị dính vào đâu, không ràng buộc cũng không trở ngại. Sự khác biệt chủ yếu giữa trạng thái vô niệm và tâm của người bình thường là những ý nghĩ trong vô niệm không còn sinh ra sự lan man lẫn ràng buộc trong quá trình nhận thức. Huệ Năng nhấn mạnh rằng triệt bỏ mọi ý nghĩ và kiềm chế suy nghĩ về mọi thứ đều là hiểu sai về pháp, và thật vậy người nào không biết điều đó thì người đó bị buộc vào pháp, thay vì được pháp giải thoát.
Có một công án thiền về một người đàn bà lớn tuổi đã cúng dường một cái lều cho một vị sư. Nhiều năm trôi qua, người đàn bà đó thử xem nhà sư tu như thế nào. Một ngày nọ, bà sai đứa con gái trẻ mang thức ăn đến lều cho nhà sư. Cô gái bất chợt ôm nhà sư và hỏi: “Sư cảm thấy như thế nào?” Nhà sư chỉ đáp, “Nó giống như cây gỗ mục đứng tựa vào vách đá lạnh lẽo, không kiếm nổi một làn gió ấm suốt ba mùa đông”. Cô gái trở về thuật lại với mẹ. Khi bà mẹ biết chuyện, bà lấy chổi đuổi dài nhà sư và đốt cái lều. Một thời gian khá lâu sau đó, nhà sư trở về nơi bà già sinh sống. Lại một lần nữa, bà bảo đứa con gái đi một mình dâng thức ăn và ôm nhà sư. Nhà sư nói khẽ, “Chỉ để trời và đất, cô và tôi, biết chuyện này. Đừng bao giờ cho mẹ cô biết.”
Khi nhà sư được thử lần đầu tiên, ông ở trong trạng thái rút khỏi môi trường bên ngoài. Mặc dầu không bị nhiễm bởi sự kích thích bên ngoài, ông cũng không thực sự ở trong trạng thái vô niệm. Ý thức của ông đã che chắn môi trường nhưng ông không thể hành động tự do mà không ngăn ngại, vì thế bà mẹ đứng tuổi đã cho ông một bài học. Lần thứ hai ông được thử thách, ông hoàn toàn khác. Ông nhận thức đầy đủ nhưng không có cấu nhiễm gây ra bởi dục vọng.
Nhiều phương pháp thiền được áp dụng bằng cách tập trung chú ý vào tâm tán loạn và làm giảm đi hoạt động suy nghĩ phân tán. Dầu thế nào, tập trung tâm vào phương pháp thực tập tự nó như là một ý nghĩ hoặc một ràng buộc tế nhị nào đó. Nếu một người tiếp tục tập trung tâm, sự ràng buộc tinh tế này vào phương pháp thực tập thiền sẽ ngăn họ vào trạng thái vô niệm, tức là ngăn họ giải thoát khỏi sự kết dính, chướng ngại hoặc ràng buộc. Điều này cắt nghĩa vì sao Thiền tông hiếm khi dùng thực tập định để tập trung tâm vào đối tượng hay hình ảnh đặc biệt. Những thực tập như thế dẫn ta đến định, nhưng không giải thoát thông suốt hoạt động của tâm vô niệm. Để thực sự kinh nghiệm vô niệm, người ta cần kinh nghiệm trạng thái của ý nghĩ không lan man mà không dùng bất cứ phương pháp nào.
Đối với những thiền sinh mới tu, từ bỏ phương pháp có nghĩa là đánh mất sức mạnh tập trung và rơi vào kẽ hở của ý nghĩ lan man. Tuy nhiên, để thực hành vô niệm, ở một lúc đặc biệt nào đó, người ta phải dùng một phương pháp không phương pháp, hay phương pháp không suy nghĩ, hay làm việc với một phương pháp làm tan rã một cách tự động gần với giai đoạn cuối cùng. Nhiều phương pháp tiên tiến ví dụ như thiền soi sáng tĩnh lặng và shikantaza (chỉ quán đả tọa: không làm gì, chỉ ngồi thật chính xác) không tập trung tâm vào một đối tượng riêng biệt nào. Sự tỉnh thức trong suốt và sự vắng lặng của tâm đi đôi với nhau trong thực tập thiền, tự nó đã là một thực tập không có niệm, một diễn tả trực tiếp của vô niệm. Khi trạng thái đó là hoàn hảo và được trải qua mà không cố gắng trong đời sống hàng ngày, tự nó là giác ngộ. Đó là cắt nghĩa tại sao trường phái thiền Soto đoan chắc rằng “thực tập tự nó là giác ngộ”.
Cũng như thế, khi một công án thiền được thực tập siêng năng, người ta như bị một tảng đá lớn của nghi-hoặc đè nặng cho đến khi công án được tiêu tan. Vào thời gian đó, một phương pháp như thế cũng trở nên một phương pháp không niệm. Khi thời gian chín muồi, khối lượng nghi ngờ lớn lao bị đập vỡ với sự bùng nổ của một tiếng hét, một cái nhìn, một đụng chạm hay tương tự như thế, và người ta đã vào vô niệm và thấy bản thể đích thực. Những phương pháp không niệm ấy trở nên giá trị cho người hành thiền vốn chuẩn bị với thực tập thiền cơ bản đầy đủ, nhưng vô niệm chẳng bao giờ được tìm thấy gắn với những phương pháp cơ bản.
Những thiền sinh không có kinh nghiệm thường lẫn lộn một tâm bị mây mờ tạm thời trống rỗng về những ý nghĩ cụ thể rõ ràng, với tâm vô niệm nhẹ lướt qua và không cấu nhiễm. Nhưng một tâm bị mây mờ và trống rỗng vẫn bị thay đổi và tùy thuộc vào hoàn cảnh; nó không thể đáp ứng một cách tự do trong bất cứ môi trường nào. Như Huệ Năng đã nói: “Giữ tâm thoát khỏi cấu nhiễm trong mọi hoàn cảnh được gọi là ‘vô niệm’. Tâm chúng ta vẫn đứng xa lánh mọi hoàn cảnh, và không vì bất cứ lý do gì chúng ta cho phép chúng ảnh hưởng đến chức năng của tâm”. Trong vô niệm, mọi ý nghĩ xuất hiện nhưng không ràng buộc với bất cứ đối tượng bên ngoài nào khiến khởi lên một chuỗi những ý nghĩ lan man.
Cho rằng ý nghĩ như thế là không bị dập tắt bởi giác ngộ, đạo sư Hoằng Trí – một trong những đạo sư lỗi lạc nhất của thiền soi sáng tĩnh lặng – đã phân biệt niệm tịnh hóa với những ý nghĩ lan man, thông qua khái niệm về sự ngưng bặt của hữu lậu, tức là vô lậu. Đạo sư Hoằng Trí nói, “Khi có vô lậu với không có lan man, một vị sư xem như hoàn thành công phu của mình”. Khi giải thích hữu lậu và vô lậu cho môn sinh, đạo sư Hoằng Trí dùng công án sau đây:
“Một nhà sư hỏi Qingping, ‘Hữu lậu là cái gì?’. Qingping đáp, ‘cái rổ’. ‘Vô lậu là cái gì?’. Qingping đáp, ‘Cái muỗng gỗ’”.
Câu trả lời cộc lốc đó nhằm tránh suy nghĩ kiểu trí thức. Cái rổ không thể chứa chất lỏng, và mọi chất lỏng đều lọt qua, trong khi cái muỗng gỗ giữ lại mọi chất lỏng chứa trong muỗng. Khi một người bắt đầu thực tập thiền, người đó thường chú ý đến dòng chảy những ý nghĩ lan man trong tâm. Chúng tiếp nối ý này theo ý kia và cái đà đó thật khó dừng. Thông qua tập trung trong suốt buổi thiền, một thiền giả nhiều kinh nghiệm có thể giữ tâm tỉnh lặng và trong sáng với ít ý nghĩ lan man; tuy nhiên khi người ta trở về đời sống hàng ngày, tâm họ dễ dàng bị đánh đổ trong một trạng thái lẫn lộn với những ý nghĩ lan man khởi lên tiếp nối nhau. Có một sự phân biệt rõ ràng giữa trạng thái tâm an bình trong thiền với trạng thái tâm hỗn độn trong những công việc của đời sống hàng ngày. Khi sức mạnh của những ý nghĩ lan man trở lại, sự sa sút và bực mình lại nổi lên. Ai ai cũng mong muốn duy trì trạng thái tâm yên bình tìm thấy được trong thiền và điều này cung cấp một động lực mạnh mẽ để thiền tiến xa hơn. Rốt cuộc, mọi người cần đến một phương pháp “không phương pháp” chẳng hạn như sự soi sáng tĩnh lặng có thể dừng sự hữu lậu của tâm trong khi thiền và trong đời sống hàng ngày.
“Hữu lậu” quy về sự vận động của những ý nghĩ lan man và sự bực mình kèm theo. Như kiểu một lỗ hổng trong tâm, cũng giống như một thùng có lỗ hổng. Những lỗ hổng kéo dài càng lâu, người ta không thể dừng dòng chảy của những ý nghĩ lan man hay sự bực mình kéo theo. Do đó, tâm trở nên tối tăm, ngu đần và không thanh thoát. Nó chảy luôn mọi lúc. Ta thiếu sức mạnh để điều chỉnh hoàn toàn tâm và thân, ta không thể ngăn ngừa lòng tham, sân hận và vô minh khởi lên trong khi đối phó với ảnh hưởng bên ngoài. Tâm đã bị thủng.
Sự chấm dứt rò rỉ giống như đóng lại lỗ hổng trong thùng bị nứt. Những giọt chất lỏng rò rỉ và chảy nhỏ giọt chậm lại cho đến khi sự rò rỉ chấm dứt hoàn toàn. Như vậy, chúng ta hiểu công việc thực tập tâm. Trạng thái hoàn thành giống như trạng thái của cái muỗng gỗ đề cập trong công án của đạo sư Qingping. Trong trạng thái vô lậu, ý nghĩ lan man và sự bực mình kèm theo bị đánh mất sức mạnh để tự nó sinh ra và nẩy nở. Sự hỗn độn tan biến giống như tiếng ồn ngẫu nhiên bị xua tan. Với sự bực mình được gỡ bỏ, tâm trở nên sáng, trong và thanh thản hoàn toàn, như ta quẳng đi một gánh nặng.
Trong trạng thái vô lậu, tâm chuyển từ nhị nguyên sang nhận thức không nhị nguyên, không biên giới và không đối nghịch. Người ta cũng thấy rõ sự hiện hữu kỳ lạ, đồng thời của sự độc lập tuyệt đối và sự hợp nhất phổ quát với mọi sự vật. Một người ở mức độ đó có thể sử dụng ý nghĩ mà họ thích, nhưng những ý nghĩ lan man sẽ không rò rỉ và tạo nên xao động. Không có vô lậu trong ý nghĩ, như thế là tốt hơn gỡ bỏ đi ý nghĩ.
Trạng thái vô lậu là một tiêu chuẩn rõ ràng về thực tập: hoặc tâm rò rỉ (hữu lậu) hoặc dừng rò rỉ. Nếu còn có một lỗ hổng tí ti trong tâm, sự rò rỉ của những ý nghĩ lan man và bực mình sẽ tiếp tục, theo kiểu như nước liên tục chảy nhỏ giọt và thùng chứa rốt cuộc mất nước bất kể lỗ hổng nhỏ thế nào đi nữa. Hiểu sự ngưng nghỉ theo nghĩa của sự ngưng nghỉ rò rỉ hơn là sự chấm dứt của những ý nghĩ. Khi lỗ hổng được vá, tâm có thể duy trì trạng thái vô lậu, không có sự thối lui về tình trạng lộn xộn. Điều này tốt hơn hẳn sự cải thiện nhận được thông qua định, ở đó sự xao động lại trở về sau khi định không còn.
Tuy thế, vào lúc ban đầu trạng thái vô lậu có thể sụp đổ khi thiền sinh đối diện với hoàn cảnh khiến đánh thức một cảm giác mạnh mẽ của sự ràng buộc. Đây giống như là một lỗ hổng được vá mới mẻ, đã bị phá rối bởi những lực mạnh khiến nước lại bị rò rỉ. Bởi vậy, thiền sinh phải rất thận trọng trong việc bảo vệ tâm vô lậu khi nó mới được tạo lập. Người ta có thể dùng giới luật để bảo vệ, chống lỗ hổng mở lại trong tâm. Cái thùng chứa được vá–tức là tâm vô lậu–có thể trở nên mạnh hơn, và mạnh hơn để tiến xa hơn, cho đến một ngày nó không còn lay chuyển nữa bởi ngay cả những gay go nhất trong đời sống.
Về điểm này, đạo sư Hoằng Trí nói, thiền sinh có thể “hoàn thành sự kế thừa”. Tâm “ hiện hữu một cách độc lập bên ngoài chuyện thế gian, tinh tế với không đối nghịch nhị nguyên. Hoàn toàn không bị thấm ướt với hữu lậu, tâm trở nên bao la và không gặp đối nghịch”.
Nguyên tác: “Does No-Thought mean No Thought?” đăng trên tạp chí Phật giáo Lion’Roar, 9/3/2017.
Tác giả: Wing Shing Chan là một môn đồ của Master Sheng Yen, tức Hòa thượng Thích Thắng Nghiêm (1930-2009). Ông là nhà văn tự do ở Hong Kong chuyên viết về Thiền tông.
Cao Huy Hoá dịch.
Theo Văn hoác Phật giáo số 288 ngày 01-01-2018