Đức Phật - Bậc thức tỉnh cho nhân thế

Đức Phật là bậc Thức tỉnh (Buddho) trong cuộc đời. Giữa lúc cả nhân loại còn đang say ngủ thì Ngài đã lặng lẽ rời hoàng cung, một mình cỡi ngựa lao thẳng về hướng mặt trời mọc để thực hiện hoài bão tìm cầu chân lý giải thoát.


Đức Phật là bậc Thức tỉnh (Buddho) trong cuộc đời. Giữa lúc cả nhân loại còn đang say ngủ thì Ngài đã lặng lẽ rời hoàng cung, một mình cỡi ngựa lao thẳng về hướng mặt trời mọc để thực hiện hoài bão tìm cầu chân lý giải thoát. Ngài được tôn xưng là bậc Giác ngộ (Buddho) bởi Ngài đã tỉnh ra cơn mộng khủng khiếp của vòng sinh tử luân hồi và đã tìm ra con đường thoát ly cơn mộng hãi hùng ấy của kiếp nhân sinh. Bản kinh Thành ấp thuộc tuyển tập Tương ng bộ ghi nhận các biểu hiện ưu tư đi đến thức tỉnh của Thế Tôn:

“Thật sự thế giới này bhãm trong khổ não, bsanh, bgià, bchết, bị đon diệt và btái sanh; và từ ni đau khổ này, không biết sự xuất ly, thoát khi già chết; từ ni đau khổ này, không biết khi nào được biết đến sự xuất ly già chết?”[1].

Vào một dịp khác, dấu hiệu thức tỉnh của Ngài càng bộc lộ mạnh hơn, thôi thúc ý chí xuất gia tìm cầu chân lý giải thoát:

“Ti sao Ta, tự mình bsanh li tìm cầu cái bsanh, tự mình bgià li tìm cầu cái bgià, tự mình bchết li tìm cầu cái bchết, tự mình bsầu li tìm cầu cái bsầu, tự mình bi ô nhiễm li tìm cầu cái bô nhiễm? Vậy Ta, tự mình bsanh, sau khi biết rõ sự nguy hi ca bsanh, hãy tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bgià, sau khi biết rõ sự nguy hi ca bgià, hãy tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bbệnh, sau khi biết rõ sự nguy hi ca bbệnh, hãy tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bchết, sau khi biết rõ sự nguy hi ca bchết, hãy tìm cầu cái bất tử, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bsầu, sau khi biết rõ sự nguy hi ca bsầu, hãy tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bi ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hi ca cái bnhiễm, hãy tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết-bàn” [2].

Với những ưu tư thức tỉnh mạnh mẽ như vậy, Ngài quyết tâm xuất gia tìm kiếm chân lý giải thoát và đã đạt đến hoàn toàn tỉnh thức, trở thành bậc Giác ngộ, chấm dứt cơn mê sinh tử luân hồi:

“Rồi này các T-kheo, Ta tự mình bsanh, sau khi biết rõ sự nguy hi ca cái bsanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bgià, sau khi biết rõ sự nguy hi ca cái bgià, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết-bàn; và đã chứng được cái không già, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bbệnh, sau khi biết rõ sự nguy hi ca cái bbệnh, tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không bệnh, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết- bàn; tự mình bchết, sau khi biết rõ sự nguy hi ca cái bchết, tìm cầu cái không chết, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không chết, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bsầu, sau khi biết rõ sự nguy hi ca cái bsầu, tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết- bàn và đã chứng được cái vô sầu, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hi ca cái bô nhiễm, tìm cầu cái không bô nhiễm, vô thượng an ổn khi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, khi các khổ ách, Niết-bàn. Và trí và kiến khi lên ni Ta. Sự gii thoát ca Ta không bdao động. Nay là đời sống cuối cùng ca Ta, không còn sự tái sanh nữa”[3].


Như vậy, Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã đạt đến thức tỉnh hoàn toàn về lẽ sống chết, khổ đau và hạnh phúc luẩn quẩn của kiếp nhân sinh, đã cắt đứt mọi nhân tố hiện hữu (sanh y (upadhi) hay hữu kiết sử (bhavasamyojana)), thoát ly vòng sinh tử luân hồi, chấm dứt hoàn toàn mọi phiền não khổ đau. Ngài là Phật, bậc Giác ngộ, sống ở đời mà không bị cuộc đời làm cho ô nhiễm, do Ngài đã đoạn tận các lậu hoặc, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương lai.

Sau khi đắc đạo, Phật dùng kinh nghiệm giác ngộ của mình để thức tỉnh mọi người. Suốt 45 năm, Ngài đi hết chỗ này đến chỗ khác của xứ sở Ấn Độ rộng lớn, vận dụng nhiều phương tiện nói lên sự khổ và sự diệt khổ để thức tỉnh nhân sinh, đánh thức tiềm năng giác ngộ vốn có ở trong mỗi người. Đạo của Ngài được gọi là đạo thức tỉnh, thức tỉnh để ra khỏi mê lầm khổ đau. Chưa có người nào từng nói cho nhân loại biết điều này: Khổ đau của con người tiềm tàng trong cảm thức hạnh phúc của người ấy; nhận rõ hạnh phúc ở đời chính là khổ đau (hoại khổ, hành khổ) thì hết khổ.

Đức Phật thức tỉnh cho thế nhân:

“Này các T-kheo, có người tự mình bsanh li tìm cầu cái bsanh, tự mình bgià li tìm cầu cái bgià, tự mình bbệnh li tìm cầu cái bbệnh, tự mình bchết li tìm cầu cái bchết, tự mình bsầu li tìm cầu cái bsầu, tự mình bô nhiễm li tìm cầu cái bô nhiễm. Này các T-kheo, cái gì theo các ngươi là bsanh, bgià, bbệnh, bchết, bsầu, bô nhiễm?

Này các T-kheo, vợ con là bsanh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là b sanh; dê và cừu là b sanh; gà và heo là b sanh; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bsanh; vàng và bc là bsanh. Này các T-kheo, những chấp thủ ấy là bsanh, và người ấy li nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bsanh li tầm cầu cái bsanh.

Và này các T-kheo, vợ con là bgià; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là b già; dê và cừu là bgià; gà và heo là bg ià; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bgià; vàng và bc là bgià. Này các T-kheo, những chấp thủ ấy là bgià, và người ấy li nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bgià li tìm cầu cái bgià.

Và này các T-kheo, vợ con là bbệnh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là b bệnh; dê và cừu là b bệnh; gà và heo là bbệnh; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bbệnh. Này các T-kheo, những chấp thủ ấy là bbệnh, và người ấy li nắm giữ tham đắm, mê say chúng, tự mình bbệnh li tìm cầu cái bbệnh.

Và này các T-kheo, vợ con là bchết; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là b chết; dê và cừu là bchết; gà và heo là bchết; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bchết. Này các T-kheo, những chấp thủ ấy là bchết, và người ấy li nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bchết li tìm cầu cái bchết.

Và này các T-kheo, vợ con là bsầu; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là b sầu; dê và cừu là b sầu, gà và heo là bsầu;voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bsầu. Này các T-kheo, những chấp thủ ấy là bsầu, và người ấy li nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bsầu li tìm cầu cái bsầu.

Và này các T-kheo, vợ con là bô nhiễm; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là b ô nhiễm; dê và cừu là bô nhiễm; gà và heo là bô nhiễm; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bô nhiễm; vàng và bc là bô nhiễm. Và này các T-kheo, những chấp thủ ấy là bô nhiễm, và người ấy li nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bô nhiễm li tìm cầu cái bô nhiễm”[4].

Cả thế giới với những thứ mà ta yêu quý đều là món ăn cho sầu muộn khổ đau, đấng Giác ngộ tuyên cáo như thế. Càng thích thú mê say chúng thì càng ấp ủ sầu muộn khổ đau. Vì một lẽ đơn giản: chúng không tồn tại mãi, không phải của ta. Kinh Pháp cú nhắc nhở:

“Con tôi, tài sn tôi,
Ng
ười ngu sinh u não,
T
ự ta, ta không có,
Con
đâu, tài sn đâu?”[5].

Nhận rõ sự thật vô thường, khổ, vô ngã của hiện hữu hay hiểu ra tính chất sanh, già, bệnh, chết, sầu muộn, ô nhiễm của những thứ ta yêu thích tức là bắt đầu tỉnh ra cơn mộng trớ trêu của kiếp nhân sinh. Tỉnh ra thì lòng hết đam mê, tâm hết sầu muộn. Nhận ra bản thân mình và những thứ mình yêu thích đều là đối tượng của sầu muộn khổ đau thì hết tham đắm, hết ái luyến, hết mê lầm tự mời gọi sầu muộn khổ đau.

Có một vị chư Thiên đến thưa với Đức Phật:

“Cha đối con vui thích,
Ch
với bò vui thích,
Ng
ười sanh y, vui thích,
Không sanh y, không vui”
[6].

Bậc Giác ngộ đáp lời vị chư Thiên:

“Cha đối con sầu muộn,
Ch
với bò sầu muộn,
Ng
ười sanh y, sầu muộn,
Không sanh y, không s
ầu”[7].

Thói quen khao khát tìm cầu và nắm giữ những gì mình yêu thích là mắt xích vô hình trói buộc chúng sinh ở trong vòng luẩn quẩn khổ đau. Tập quán mê chấp này thật khó thấy và khó chữa trị, vì chúng đã trở thành món ăn thân thương lâu đời trong tâm tưởng của chúng sinh. Con người quen sống với những ý tưởng thân thuộc hằng ngày nên chẳng ai muốn một cảm thức trái ngược xảy ra chống lại cảm giác quen thuộc của đời mình. Ai cũng yêu thích con cái và tài sản, không thấy hoặc không muốn hiểu ra chúng là đối tượng của sầu muộn, cần phải buông bỏ tâm ái luyến. Khuynh hướng lờ đi những gì làm tổn thương ngã tính khiến tâm thức con người dần dần mất đi tính tự chủ và sáng suốt. Chính tâm thức được dung dưỡng lâu ngày theo chiều hướng mê lầm như vậy thành ra tập quán (nghiệp) dẫn dắt đời sống luân hồi của chúng sinh.

Kinh Phật gọi tập quán mê lầm ấy là ái (tanhà), nghiệp hữu (bavakamma) hay sanh y (upadhi), tức động lực dẫn đến khổ đau tái sinh: “tự mình bsanh li tìm cầu cái bsanh, tự mình bgià li tìm cầu cái bgià, tự mình bbệnh li tìm cầu cái bbệnh, tự mình bchết li tìm cầu cái bchết, tự mình bsầu li tìm cầu cái bsầu, tự mình bô nhiễm li tìm cầu cái bô nhiễm”.

Bậc Giác ngộ hiểu rõ tập quán mê chấp khổ đau này của chúng sinh; vì không thấy được bản chất sầu khổ bất an của hiện hữu nên con người mới rơi vào vòng ham muốn luẩn quẩn, phản tưởng khổ là lạc[8], tự mời gọi phiền muộn khổ đau. Ngài chủ trương đánh thức nhân loại ra khỏi vòng mê chấp luẩn quẩn này bằng cách tập trung nhấn mạnh về sự khổ và sự diệt khổ, được thấy rõ qua sự tuyên thuyết về Tứ Thánh đế:

Đây là Thánh đế về Khổ, này các T-kheo. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, u, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm li, nm thuẩn là khổ.

Đây là Thánh đế về Khổ tập, này các T-kheo, chính là ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hvà tham, tìm cầu hlc chỗ này chỗ kia. Tức là dc ái, hữu ái, phi hữu ái.

Đây là Thánh đế về Khổ diệt, này các T-kheo, chính là ly tham, đon diệt, không có dtàn khát ái ấy, sự qung b, từ b, gii thoát, không có chấp trước.

Đây là Thánh đế về Con Đường đưa đến Khổ diệt, này các T-kheo, chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tduy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định”[9].

Nhìn thẳng vào khổ đau của kiếp nhân sinh để sinh tâm nhàm chán buông bỏ khổ đau là thông điệp thức tỉnh mà đấng Giác ngộ mong muốn gởi đến cho thế giới loài người. Con người là khổ, cuộc đời là khổ. Khổ bởi sanh, già, bệnh, chết đi kèm với muôn vàn phiền não khổ đau khác không ngừng xảy ra trong cuộc đời mà con người hoàn toàn bất lực. Chẳng ai muốn khổ đau nhưng khổ vẫn xảy ra, vì không ai tránh được các sự kiện phiền toái già, bệnh, chết của kiếp nhân sinh. Khổ đau là sự kiện hiển nhiên của đời người nhưng có thể được chấm dứt, vì khổ chỉ là một hiện tượng do nhân duyên sinh, do vô minh và tham ái tạo nên, có sanh và có diệt, không thực thể, không thường hằng, không tồn tại mãi. Thiếu hiểu biết mà rơi vào ái luyến tự thân và cuộc đời này thì khổ phát sinh. Có hiểu biết sáng suốt buông bỏ lòng tham thì khổ chấm dứt. Bậc Giác ngộ tuyên bố Bát Thánh đạo là lối sống sáng suốt buông bỏ lòng tham đưa đến chấm dứt khổ đau. Đó là thông điệp giác ngộ có tác dụng thức tỉnh lớn cho thế giới loài người ra khỏi mọi mê lầm khổ đau, nhờ sự xuất hiện có một không hai của Đức Phật, bậc Chánh đẳng giác, ở trong cuộc đời.

Nhìn chung, Đức Phật đến với thế giới loài người chỉ để nói lên sự khổ và sự diệt khổ. Ngoài những lời dạy căn bản về đạo đức giúp cho nhân loại thiết lập nếp sống hạnh phúc hiền thiện trên cuộc đời và chung sống với nhau bằng tình thân ái và hòa bình, bậc Giác ngộ còn đi sâu hơn trong việc chỉ rõ căn nguyên của khổ đau nhân sinh và biện pháp dứt trừ gốc rễ khổ đau luân hồi, giúp cho con người tự tin bước đi trên con đường giải thoát trong khi vẫn thực hiện tốt các phận sự và trách nhiệm đối với cuộc đời khổ đau. Đây hẳn là con đường tuyệt đối lớn lao mà Đức Phật, bậc

Chánh đẳng giác, đã mở ra cho toàn thể loài người, một con đường giác ngộ tuần tự hướng con người đi đến hoàn thiện về giới đức, tâm đức và tuệ đức, thành tựu mục tiêu giải thoát khổ đau ngay trong đời này.


Vào thế kỷ thứ sáu trước kỷ nguyên Tây lịch, những người có trí từng thốt lên lời cảm thán về Đức Phật, bậc thức tỉnh cho thế giới loài người:

“Thế Tôn đã giác ngộ, Ngài thuyết pháp để giác ngộ. Thế Tôn đđiều phc, Ngài thuyết pháp để điều phc. Thế Tôn đã tch tnh, Ngài thuyết pháp để tch tnh. Thế Tôn đã vượt qua, Ngài thuyết pháp để vượt qua. Thế Tôn đã chứng Niết-bàn, Ngài thuyết pháp để chứng Niết-bàn”[10].

Hơn hai mươi lăm thế kỷ sau, cảm thán về một bậc Giác ngộ đã đóng góp thực tiễn cho mục tiêu lớn lao của nhân sinh - sự thoát ly khổ đau sinh tử luân hồi - tiếp tục được bộc bạch qua ngoài bút phân tích sắc sảo các bậc thức giả hiện đại:

“Hãy bo cho tôi tên tuổi ca một người khác đã trình bày thông suốt vấn đề lớn lao ca loài người, làm sao thoát khi khổ đau và sự chết và khiến nó thành luận đề độc nhất ca giáo lvà cuộc đời mình, như Đức Phật đã làm! Chắc chắn đã có trong nhân loi những nhân vật tiêu biểu hiểu được khổ đau, nguồn gốc khổ đau, sự đon diệt khổ đau và con đường đưa đến sự đon diệt khổ đau. Bởi sự kiện khổ đau bao trùm cvtrcng như đời sống mỗi cá nhân; vì vậy khổ đau là vấn đề khó lãnh hội, nếu không muốn nói là không thể lãnh hội. Tuy vậy, những hiểu biết này chẳng qua chlà những bóng mờ, những hiểu biết phiến diện không đưa đến kết quchắc chắn. Điều này có thể áp dng đối với triết hc hiện đại ca Schopenhauer, là người, không nhnhững người châu Âu khác, đã nêu rõ bn chất ca đời sống là khổ đau nhng đã không tìm thấy con đường hay nhp cầu vượt qua khổ đau. Còn nói gì đến triết hc Upanisads mà tính cách vĩ đại ca nó chgiáo lý Đức Phật mới vượt trội. Tuy vậy triết lnày cng không gii quyết được vấn đề vì nó không chú nhiều đến nội dung khổ đau, không thấy khổ đau là sự kiện mi lúc mi ni và do đó không biết đích xác con đường đưa đến chấm dứt khổ đau. Không nhngười khác, Đức Phật chthẳng cho chúng ta vấn đề tuyệt đối cn bn ca đời sống chúng ta, làm sao gii thoát khổ đau, và trên hết, khổ đau sinh tử.”[11]


Chú thích:

1. Kinh Thành ấp, Tương ng bộ.
2&3&4. Kinh Thánh cầu, Trung bộ.
5. Kinh Pháp cú, kệ số 62.
6&7. Kinh Vui thích, Tương ng bộ.
8. Kinh Màgandiya, Trung bộ.
9. Kinh Như Lai thuyết (1), Tương ng bộ.
10. Tiểu kinh Saccaka, Trung bộ.
11. G. Grimm, The Doctrine of the Buddha, tr.43-48.


Theo Văn hoá Phật giáo số 321 ngày 15-05-2019