Pháp thí thắng mọi thí - Pháp hỷ thắng mọi hỷ - Ái diệt thắng mọi khổ - Niết-bàn lạc tối thượng.

>>

Đạo Phật và trí thức

Mục lục

Đạo Phật nổi tiếng với lời nói "Mời bạn đến và thấy" (Ehipassiko), nhẹ nhàng đi vào thế giới trí thức bởi tính chất trí tuệ nhân bản của nó. Đức Phật tuyên bố đạo của Ngài là chân lý khách quan', do Ngài phát hiện và tuyên thuyết, được người có trí (pandito) tự mình chứng hiểu2. Ai cũng có khả năng thấu đạt chân lý, vì chân lý có mặt trong mỗi người3. Chỉ cắn suy xét thận trọng thì chân lý sê mở ra, soi sáng cho đời sổng của mình. Theo lời Phật, con người là chủ nhân của số phận mình4. Không có và không cẩn đến uy quyến nào thay con người phán xét sự đúng sai dẫn đến ban thưởng hay trừng phạt. Mỗi người phải tựthắpđuổc lên mà đi5. Đức Phật tự nhận là người chỉ đường (maggakkhàyì)6, tuyên bổ đạo của Ngài dành cho người thấy (passato), người biết (jànato); không phải cho người không thấy (apassato), không biết (ajànato)7.
Thế nào là người thấy và biết? Bậc Giác ngộ cắt nghĩa: "Có như lý tác ý và phi như lý tác ý. Này các Tỷ-kheo, do phi như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tông trưởng. Này các Tỷ- kheo, do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt"8.
Như lý tác ý (yoniso manasikàra) nghĩa là chú tâm tìm hiểu và xem xét chân lý (khổ, tập, diệt, đạo) để quyết định lối sống của mình theo hướng đi ra khỏi phiền não khổ đau, không cẩn phải tin và nghe theo ai cả. Đó là Chánh kiến (Sammàditthi) trong đạo Phật, là thái độ trí thức, khởi điểm của lối sổng chân chánh sáng suốt đưa đến tự do, giải thoát. Trái lại, phi như lý tác ý (ayoniso manasikàra) là thái độ thiếu hiểu biết, thiếu cân nhắc, tin tưởng vào các chủ thuyết mê lầm dân đến trói buộc, khổ đau. Người thấy, người biết là người có như lý tác ý. Ngưòi không thấy, không biết tức là người rơi vào phi như lý tác ý.
Thái độ trí thức luôn luôn là lời kêu gọi của bậc Giác ngộ trong phương pháp tiếp cận và thực nghiệm chân lý. Phải tự mình xem xét tìm hiểu rói mới đi đến chấp nhận thực hành hoặc từ bỏ. Một hôm, những người Kàlàmà xứ Kesaputta tìm đến Đức Phật, cáu xin Ngài giúp giải tỏa cho họ các hoài nghi phát sinh do sự mâu thuẫn và chống báng nhau giữa những người đề xướng chân lý. Họ thưa với Ngài:
"Có một số Sa-môn, Bà-la-môn, bạch Thê Tôn, đi đến Kesaputta. Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điềm của người khác, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Bạch ThễTôn, và có một sóSa-môn, Bà-la-môn khác cũng đi đến Kesaputta, họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điềm của mình, họ bài xích quan điềm của người khác, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Đổi với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ, phân vân: Trong những Tôn giả Sa-môn này, ai ná sự thật, ai nói láo?".
Nhân dịp này, bậc Giác ngộ cho những người Kàlàmà một lời khuyên sáng suốt, mãi mãi làm nức lòng giới trí thức, những người yêu quý và tôn trọng chân lý tự do trên cuộc đời:
“Đương nhiên, này các Kàlàmà, các ông có những nghi ngờ! Đương nhiên, này các Kàlàmà, các õng có những phân vân! Trong những trường hợp đáng nghi ngờ, các ồng đương nhiên khởi lên phân vân.
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì nghe truyền thống; chớ có tin vì nghe người ta nói; chớ có tin vì được Kinh tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hạt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuát từ nơi có uy quyển; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc Đạo sư của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là bát thiện; các pháp này là có tội; các pháp này bi các người có trí chì trích; các pháp này nếu thực hiện và cháp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau", thời này các Kàlàmà, hãytừbỏchúng!
Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, lòng tham khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?

- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.

- Người này có tham, này các Kàlàmà, bị thơm chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lây của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm nhưvậy. Như vậy, có làm cho người ây bát hạnh đau khổ lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.

Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, lòng sân khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên nhưvậylàđưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?

  • Bát hạnh, bạch Thế Tôn.

  • Người này có sân, này các Kàlàmà, bị sân chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lây của không cho, đi đến vợ người, na láo, khích lệ người khác cũng làm nhưvậy. Như vậy có làm cho ngườ ây bát hạnh đau khổ lâu dài hay không?

  • Thưa có, bạch Thế Tôn.

Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, lòng si khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên nhưvậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ẩy?

  • Bát hạnh, bạch Thê Tôn.

  • Người này có si, này các Kàlàmà, bị si chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lây của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy có làm cho người ây bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?

  • Thưa có, bạch Thế Tôn.

Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmờ, các pháp này là thiện hay bất thiện?

  • Là bẩt thiện, bạch Thế Tôn.

  • Có tội hay không có tội?

  • Có tội, bạch Thế Tôn.

  • Bị người có trí quở trách hay không bị người có trí quở trách?

  • Bị người có trí quở trách, bạch Thế Tôn.

  • Nểu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến bốt hạnh đau khổ không, hay ở đây là như thế nào?

  • Được thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến bất hạnh, đau khổ. Ở đây, đói với chúng con là vậy.

Như vậy, này các Kàlàmà, điểu Ta vừa nói với các Ồng: "Chớ có tin vì nghe truyền thuyết... chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc Đạo sư của mình." Nhưng nàycácKàlàmà, khi nào tự mình biết như sau: "Các pháp này là bất thiện; các pháp này là có tội; các pháp này bị các người có trí quở trách; các pháp này nếu thực

  • hiện và chấp nhận, đưa đến bất hạnh, đau khổ", thời này các Kàlàmà, hãy từ bò chúng! Điều đã được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy được nói lên.

Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe truyền thuyết... chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc Đạo sư của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết như sau: “Các pháp này là thiện; các pháp này là không có tội; các pháp này không bị người có trí chì trích; các pháp này nếu thực hiện và cháp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc", thời này các Kàlàmà, hãy đạt đến và an trú!

  • Các Õng nghĩ thế nào, nàycácKàlàmà, không tham, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bát hạnh lâu dài cho người ây?

  • Hạnh phúc, bạch Thể Tôn.

  • Người này không tham, này các Kàlàmà, không bị tham chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lây của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy có làm người ây được hạnh phúc an lạc láu dài hay không?

  • Thưa có, bạch Thế Tôn.

  • Các Õng nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không sân, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ây?

  • Hạnh phúc, bạch ThếTôn.

  • Người này không sàn, này các Kàlàmà, không bị sân chinh phục, tâm không bi xâm chiếm, không giết các sinh vật... không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy có đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho người ây không?

  • Thưa có, bạch Thế Tôn...

  • Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không si khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bât hạnh cho người ây?

  • Hạnh phúc, bạch ThếTôn.

  • Người này không si, này các Kàlàmà, không bị si chinh phục, tâm không bi xâm chiếm, không giết các sinh vật,... không lẩy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy có đem lại hạnh phúc an lạc lâu dài hay không?

  • Thưa có, bạch Thế Tôn...

  • Các Ồng nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, các pháp này là thiện hay bát thiện?

  • Là thiện, bạch Thế Tôn.

  • Các pháp này là có tội hay không có tội?

-Không có tội, bạch Thế Tôn.

  • Bị người có trí quở trách hay được người trí tán thán?

  • Được người trí tán thán, bạch Thế Tôn.

 

  •  Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến hạnh phúc, an lạc không, hay ở đây là như thế nào?

  • Được thực hiện, được chấp nhận, bạch ThếTôn, chúng đưa đến hạnh phúc, an lạc. ở đây, đối vối chúng con là vậy.

  • Như vậy, này các Kàlàmà, điểu Ta vừa nói với các Ông: "Chớ có tin vì nghe truyền thuyết... chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc Đạo sư của mình. "Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết như sau: 'Các pháp này là thiện; các pháp này là không có tội; các pháp này được các người có tri tán thán; các pháp nàynểu được thực hiện, được chấp nhận đưa đễn hạnh phúc, an lạc', thời này các Kàlàmà, hãy chứng đạt và an trú! Điểu đã được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy được nói lên"9.

Đức Phật xuất hiện ở đời chỉ tuyên cáo hai điếu: khổ và diệt khổ10. Sống mà thiếu hiểu biết là khổ. Có trí tuệ sáng suổt thì hết khổ. Ngài dạy tham-sân-si là mê lám, xấu ác, đưa đến phiến não khổ đau, cẩn phải từ bò. Không tham-sân-si là sáng suốt, hiền thiện, đưa đến hạnh phúc an lạc, cẩn phải chứng đạt và an trú. Người có trí chẳng cẩn phải tin và nghe theo ai cả. Chỉ cẩn suy xét thận trọng tìm ra chân lý giải thoát cho chính mình.
Một đặc điểm khác của tư tưởng Phật giáo thu hút sự chú ý của phẩn lớn thức giả trên thế giới, đó là sự giải thoát tuyệt đối trong cách thể nghiệm cuộc sống, một loại giải thoát hay tự do mà moi nỗ lực của tư tưởng Tây phương đếu bí lối nhung đã được Đức Phật chứng ngộ và tuyên bố cách nay hơn hai mươi lăm thế kỳ. G. Grimm cho rằng không có al ngoài Đức Phật đã chỉ thẳng cho chúng ta vấn đế tuyệt đối căn bản của đời sống chúng ta, làm sao giải thoát khổ đau, và trên hết, khổ đau sinh tử11. Đó là Chánh trí ngay trong hiện tại (ditthadhamme Annà), là tự do trong ràng buộc, tự tại giũa khổ đau; sự thoát khỏi cái tôi ám ảnh (ngã tưởng mê lẩm)12 do chứng ngộ mọi thứ là thay đổi, biến diệt, không thường tại, không thực thể, trống không13, vô ngã, khiến cho mọi gánh nặng trên cuộc đời được đặt xuổng.
Đức Phật, bậc đã đặt xuống gánh nặng khổ đau sinh tử, tuyên bố về chân lý của tự do tuyệt đối:
Năm uẩn là gánh nặng,

Kẻ gánh nặng là người;
Mang láy gánh nặng lên,
Chính là khổ ở đời,
Còn đặt gánh nặng xuống,
Tức là lạc, không khổ.
Đặt gánh nặng xuống xong,
Không mang thêm gánh khác;
Nếu nhổ khát ái lên,
Tận cùng đến gốc rễ,
Không còn đói và khát,
Được giải thoát tịnh lạc'9.
Đó là sựthật về giải thoát tối hậu hay tự do tuyệt đối do Đức Phật chứng ngộ và công bố cho thế giới loài người, một thê' giới “bị hãm trong khổ não, bị sanh, bị già, bị chét, bị đoạn diệt và bị tái sanh; không biết đến sự xuât ly, thoát khỏi già chết“'s. Theo lời Phật thì hết thảy mọi người đéu có khả năng thoát khỏi khổ đau luân hối, (samsàra), đạt đến bất tử (ama ta), nhờvào ý chí và trí tuệ của chính mình16. Đó là tập trung nhận ra (như lý tác ý vé) gánh nặng phiến toái khổ đau của sự hiện hữu và quyết tâm buông bỏ nó. Con người không cẩn phản úhg chống lại số phận khổ đau bằng cách này hay cách khác mà nên học cách tiếp nhận đúng đắn và sáng suốt buông bỏ nó. Đức Phật, bậc đã nhẹ nhàng vượt qua bộc lưu nhờ trí tuệ17, gợi lối đi giải thoát cho nhân thế:

  • Này các Tỷ-kheo, các người nghĩ thế nào, sác là thường hay vô thường?

  • Bạch Thế Tôn, vô thường.

  • Cái gì vỗ thường là khổ hay lạc?

  • Bạch Thế Tôn, khổ.

  • Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thì có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?

  • Bạch Thế Tôn, không.

  • Này các Tỷ-kheo, cảm thọ... tưởng... các hành...

  • Này các Tỷ-kheo, thức là thường hay vỏ thường?

  • Bạch Thế Tôn, vô thường.

  • Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

  • Bạch Thể Tôn, khổ.

  • Cái gì vô thường, khổ thì có hợp lý chăng, khi chánh quán cái ây là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?

  • Bạch Thế Tôn, không'8.

“Này các Tỷ-kheo, cái gì người có trí ở đời chấp nhận là "không", Ta cũng nói là "không". Này các Tỳ-kheo, cái gì người có trí ở đời chấp nhận là "có", Ta cũng nói là “có”.
Và này các Tỷ-kheo, cái gì người có trí ở đời chóp nhận là "không", Ta cũng nói là "không"?
Này các Tỷ-kheo, người có trí ở đời không chấp nhận sổc là thường còn, thường hàng, thường trú, không chịu sự biến hoại, thời Ta cũng nói là "không".
Người có trí à đời không chấp nhận thọ... tưởng... các hành...

Người có trí ở đời không chấp nhận thức là thường còn, thường hăng, thường trú, không chịu sự biến hoại, thời Ta cũng nói là “không".
Này các Tỷ-kheo, đây là cái gì người có trí ở đời chấp nhận là “không", Ta cũng nói là “không".
Và này các Tỷ-kheo, cái gì người có trí ở đời chấp nhận là “có", Ta cũng nói là “có"?
Này các Tỷ-kheo, người có trí ở đời chấp nhận sâc là vô thường, không thường hàng, không thường trú, chịu sự biến hoại, thời Ta cũng nói là “có" vậy.
Người cótríở đời chấpnhậnthọ... tưởng... cáchành...
Này các Tỷ-kheo, người có trí ở đời chấp nhận thức là vô thường, không thường hàng, không thường trú, chịu sự biến hoại, thời Ta cũng nói là “có" vậy.
Này các Tỷ-kheo, đây là cái gì người có trí ở đời chấp nhận là vô thường, không thường hàng, không thường trú, chịu sự biển hoại, thời Ta cũng nói là “có" vậy.
ờ trong đời, này các Tỷ-kheo, có thế pháp. Thế pháp ấy Như Lai hoàn toàn chứng ngộ, hoàn toàn chứng tri. Sau khi hoàn toàn chứng ngộ, hoàn toàn chứng tri, Như Lai tuyên bó, thuyết giảng, trình bày, xác chứng, khai thị, phân tích, hiển lộ.
Này các Tỷ-kheo, thế pháp ở trong đời là gì, thế pháp ây được Như Lai chứng ngộ, chứng tri; sau khi chứng ngộ, chứng tri, Ngài tuyên bố, thuyết giảng, trình bày, xác chứng, khai thị, phân tích, hiển lộ?
Này các Tỷ-kheo, sâc, thọ, tưởng, các hành, thức là thế pháp ở trong đời. Thế pháp ây được Như Lai chứng ngộ, chứng tri; sau khi chứng ngộ, chứng tri, Ngài tuyên bố, thuyết giảng, trình bày, xác chứng, khai thị, phân tích, hiền lộ. Và ai, khi Như Lai tuyên bố, thuyết giảng, trình bày, xác chứng, khai thị, phân tích, hiển lộ như vậy, vãn không biết, không thấy, thì đối với người ấy, Ta xem là vô tích sự, là kẻ ngu si, phàm phu, mù lòa, không có mát, không có biết, không có thây.
Ví như, này các Tỷ-kheo, bông sen xanh, hay bông sen hống, hay bông sen trâng sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên khỏi nước và đứng thảng, không bị nước nhiễm ướt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai sanh ra ở trong đời, lớn lên trong đời, vươn lên khỏi đời, và sổng không bị đời ô nhiễm"'*.
Như Lai sống ở đời, phải đối diện với mọi thứ trong cuộc đời giống như các chúng sinh khác, nhưng Như Lai không bị đời chi phối, không bị đời làm cho ô nhiễm, không bị đời làm cho đau khổ. Như Lai không khổ, vì Như Lai thấy rõ sác, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, chịu sự biến hoại, khổ đau, không phải của mình. Như Lai đươc tựdo, giải thoát, vì Như Lai không ái luyến, không chấp trước những gì mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân cảm xúc, ý nhận thức là "tôi" hay "của tôi". Không ái luyến, không chấp trước, không dính mắc vào thứ gì thì tâm được tự do, giải thoát, không phiến não khổ đau20. Các bậc giác ngộ đã đạt đến giải thoát tối hậu vẫn hiện hữu ở đời với gánh nặng ngũ uẩn (chịu sự sanh, già, bệnh, chết đi kèm với mọi phiến toái khác), nhuhg được gọi là đã đặt gánh nặng xuống (ohitabhàro), không mang thêm gánh khác, bởi chư vị ấy đã đoạn trừ khát ái (tanhà) và chấp thủ (upàdàna) đối với hiện hữu, cắt đứt tái sinh, không còn sáu khổ trong hiện tại và tương lai.
Nói cách khác, con người sinh ra ở đời vốn mang trên mình một gánh nặng khổ đau (dukkhabhàra), gánh nặng của thân ngũ uẩn chịu sự sanh, già, bệnh, chết cùng với mọi phiến toái khác gắn liền với sự hiện hữu, nhưng với trí tuệ có thể đặt gánh nặng xuống21. Đó là học theo Như Lai không luyến ái, không chấp trước ngũ uẩn, không xem sắc (thân thể), thọ (cảm giác), tưởng (nhận biết), hành (ý chí), thức (tri thức) là mình và của mình. Không luyến ái, không chấp trước ngũ uẩn là ta và của ta thi thoát khỏi mọi hệ lụy khổ đau. Sắc thọ, tưởng, hành, thức chịu sự sanh, già, bệnh, chết, là gánh nặng khổ đau mà mê lẩm rơi vào ái luyến chúng, ôm ấp chúng, xem chúng là của mình, mong muốn chúng tổn tại mãi mãi thì không thoát khỏi luân hói khổ đau. Trái lại, sổng với trí tuệ thấy rõ sắc, thọ, tưởng, hành, thức không tón tại, trống không, không phải của mình, buông bỏ chúng thì không khổ nào đeo bám được. Phật gia bảo có sự kiện khổ nhưng không có người khổ là thế.
Đó là sự thật của tự do tối hậu mà một lúc nào đó con người sẽ cán đến nhưng phải tựthân nỗ lực chứng nghiệm bằng con đường quán sát tự nội, đằng sau những thứ tự do tương đổi và giới hạn có được nhờ vào những cuộc cách mạng xã hội mang lại.
Rõ là đọc cho kỹ những lời Phật dạy ta sẽ không ngạc nhiên vì sao trí thức trên thê giới luôn luôn đánh giá cao đạo Phật, tiêu biểu là nhận định của AlbertEinstein cho rằng đạo Phật không cắn phải xét lại chính mình vi Phật giáo là chân lý luôn luôn cẩn thiết cho đời sống hạnh phúc của nhân loại. ■



Chú thích: ì. Kinh Tương ưng bộ, tập II, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1993; Kinh Tăng chi bộ, tập I, tr.331-332, Trường Cao cấp Phật học Việt Nam Cơ sở II, 1987.2. Kinh Vi dụ tấm vải, Trung bộ. 3. Đức Phật tuyên bố chân lý của cuộc đời, nghĩa là khổ, khổ tập khởi, khổ đoạn diệt, con đường đưa đến khổ đoạn diệt, nằm trong tấm thân của mỗi người. (Xem kinh Rohitassa, Tăng chi bộ). 4. Kinh Tiểu nghiệp phân biệt, Trung bộ. 5. Kinh Đại bát Niết-bàn, Trưởng bộ. 6. Kinh Ganaka Moggallàna, Trung bộ. 7&8. Kinh Tất cả lậu hoặc, Trung bộ. 9. Kinh Các vị ờ Kesaputta, Tăng chi bộ. 10&18. Kinh Xà dụ, Trung bộ. 11. G. Grimm, The Doctrine ottheBuddha, tr.43-48.12. Kinh Nakulapita, Tương ưng bộ. 13. Kinh Bọt nước, Tương ưng bộ. 14&21. Kinh Gánh nặng, Tương ưng bộ. 15. Kinh Thành ấp, Tương ưng bộ. 16. Kinh Thánh cáu, Trung bộ. 17. Kinh Bộc luư, Tương ưng bộ. 19. Kinh Bông hoa, Tương ưng bộ. 20. Tiểu kinh Đoạn tận ái, Trung bộ.




Theo Văn hoá Phật giáo số 350 ngày 15-08-2020

 

Đại Tạng Kinh Việt Nam

Tháng Năm