Biết sống vô thường (Phần cuối)
Trong kinh, Phật thường nói: “Nghiệp theo ta như bóng với hình, dù trải qua trăm kiếp, ngàn đời vẫn không bao giờ bị mất, khi nào hội đủ nhân duyên thì quả báo tự nó hiện ra, không một ai cưỡng lại hay làm sai lệch được”.
Mục lục
- 10 - Thư mời viết bài hội thảo khoa học: Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền với Hội Phật học Nam Việt
- 11 - Thư mời viết bài tham luận cho Vesak 2019
- 12 - Thư mời viết bài hội thảo khoa học: Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám và Hội An Nam Phật học
- 13 - Ảnh hưởng của phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam(1920) đến việc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam(1981)
- 14 - Tỷ-kheo phải biết xông khói
- 15 - Nhân minh học là khoa học của mọi luận lý
- 16 - Thư mời HỘI THẢO KHOA HỌC "Phật giáo Cổ truyền Việt Nam và sự đóng góp cho Đạo Pháp và Dân Tộc"
- 17 - Đạo Phật và trí thức
- 18 - Sách nói : Kinh Trường Bộ
- 19 - Ra mắt nhân sự Viện nghiên cứu Phật học VN NK 2007- 2012
- 20 - Cơ cấu nhân sự Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 21 - Ra mắt nhân sự Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 22 - Viện Nghiên cứu Phật học VN tổng kết năm 2014
- 23 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổ chức lễ tổng kết Phật sự 2015 và phương hướng hoạt động 2016
- 24 - Buổi họp Ban thường trực Hội đồng Quản trị Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 25 - BTS Phật giáo TP.HCM làm lễ Tự tứ mãn hạ
- 26 - Viện Nghiên Cứu Phật Học VN họp chỉnh sửa bổ sung cho quy chế nhiệm kỳ 8 (2017-2022)
- 27 - Viện Nghiên cứu Phật học VN thăm viếng chư tôn đức dịch giả
- 28 - Sẽ nỗ lực hoàn thành Bộ Đại tạng kinh Việt Nam
- 29 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam họp phiên đầu tiên của nhiệm kỳ mới
- 30 - Gần 450 nhân sự tham gia Viện Nghiên cứu Phật học VN
- 31 - Khởi động việc ấn hành Đại tạng kinh Phật giáo VN
- 32 - HỌC CÁCH ĐỐI DIỆN VỚI SỢ HÃI
- 33 - Con người phụ thuộc vào tự nhiên và có sự tác động lẫn nhau
- 34 - Nguồn gốc Phật giáo
- 35 - Phiên âm Đại Tạng Kinh
- 36 - Góp chút công sức cho Đại tạng kinh Việt Nam
- 37 - Góp phần đề nghị một đề cương biên dịch cho Đại tạng kinh Việt Nam
- 38 - Học và tu
- 39 - Viện Nghiên cứu Phật học VN có Ban Vận động tài chánh
- 40 - Hoạt động của Ban Phiên dịch Phật học Anh - Việt
- 41 - Lễ tổng kết của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, nhiệm kỳ 2012-2017
- 42 - Tôn giáo và Đạo đức
- 43 - Khai phát Trí tuệ nhìn từ tư tưởng Kinh Duy Ma Cật
- 44 - Thủ tướng chủ trì họp về công tác tổ chức Đại lễ Vesak 2019
- 45 - Chuẩn bị cho Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 46 - Phỏng vấn Hoà thượng Chủ tịch ICDV về Vesak 2019
- 47 - TP.HCM:Họp Ủy ban Quốc gia Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 48 - VIDEO: Việt Nam đăng cai lần thứ 3 Đại lễ Vesak LHQ
- 49 - Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội triển khai công tác Phật sự năm 2019
- 50 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (1)
- 51 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (2)
- 52 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (3)
- 53 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (4)
- 54 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (5)
- 55 - Thân người khó được, Phật pháp khó nghe
- 56 - Nếp sống đạo đức, lành mạnh của người Phật tử
- 57 - Suy nghĩ đôi điều về sự cầu siêu và cúng thí thực
- 58 - Chữ Tâm trong đạo Phật
- 59 - Phật giáo mô tả về Vũ trụ như thế nào? (1)
- 60 - Phật giáo mô tả về Vũ trụ như thế nào? (2)
- 61 - Để tâm Vô trụ khi làm từ thiện
- 62 - Tính chất giáo dục của Giới luật Phật giáo
- 63 - Ý thức về Tội lỗi
- 64 - Điều quan yếu của đời sống
- 65 - Hiểu rõ hơn về Nghiệp
- 66 - Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Cảnh (1937-2018)
- 67 - Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Sam (1929 - 2018)
- 68 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Đức Chơn(1932-2017)
- 69 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Chơn Kim (1930 - 2017)
- 70 - Sơ Lược Tiểu Sử Hòa thượng Thích Trí Tịnh
- 71 - Tiểu Sử Đại Lão Hòa thượng Thích Đổng Quán(1925-2009)
- 72 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Bửu Chung (1881-1947)
- 73 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Huệ Quang (1888 - 1956)
- 74 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Khánh Anh
- 75 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Hoàng Từ
- 76 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Nhật Liên
- 77 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Thiện Hoa (1918 - 1973) Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN
- 78 - Sơ Lược Tiểu Sử Hòa thượng Thích Quảng Tâm
- 79 - Tiểu Sử cố Đại Lão Hòa thượng Thích Bảo An
- 80 - Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ
- 81 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Bửu Phước (1880-1948)
- 82 - Tiểu sử trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu (1918 - 2012)
- 83 - Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Từ Nhơn (1926 - 2013)
- 84 - Tìm hiểu giáo nghĩa Tịnh độ Chân tông Nhật Bản
- 85 - Không đắm nhiễm thì sống vui
- 86 - Cõi âm có hay không? Nhận thức của Phật giáo đối với vấn đề này
- 87 - Kinh Tương Ưng Bộ - HT Thích Minh Châu dịch Việt
- 88 - Kinh Trường Bộ 1 - HT Thích Minh Châu dịch Việt
- 89 - Nhân sự Ban in ấn và phát hành nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 90 - Nhân sự Ban Tài chính nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 91 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 92 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Phật học Hán truyền nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 93 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Văn học Phật giáo nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 94 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Thiền học Nam Truyền nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 95 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Thiền học Bắc Truyền nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 96 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Nữ giới Phật giáo nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 97 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 98 - Nhân sự Trung tâm Phiên dịch Anh - Việt Phật học nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 99 - Nhân sự Phân viện Nghiên cứu Phật giáo Nam Tông nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 100 - Nhân sự Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 101 - Quan điểm về Theravāda và Mahāyāna của Phật Hoàng Trần Nhân Tông
- 102 - Tìm hiểu ý nghĩa câu kệ Sùng Nghiêm của Trần Nhân Tông
- 103 - Mục tiêu của đạo Phật là gì?
- 104 - Khởi nguyên Thiền Học Việt Nam
- 105 - Phật hoàng Trần Nhân Tông và những giá trị siêu việt
- 106 - Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng (P.1)
- 107 - Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng (P.2)
- 108 - Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng (P.3)
- 109 - Lợi ích của pháp tu lạy Phật
- 110 - Tại sao nhiều người mê cõi Tây phương Cực lạc?
- 111 - Đức Phật có phủ nhận việc cầu nguyện?
- 112 - Bốn pháp mang đến an lạc đời sau cho người cư sĩ
- 113 - Ba căn lành chẳng thể cùng tận
- 114 - Cầu nguyện có được kết quả như ý không?
- 115 - Vì người tạo ác nghiệp, chính mình phải chịu tội
- 116 - Phật dạy 20 điều khó
- 117 - Biết sống vô thường (P.1)
- 118 - Biết sống vô thường (P.2)
- 119 - Biết sống vô thường (P.3)
- 120 - Biết sống vô thường (Phần cuối)
- 121 - 7 thứ gia tài bậc Thánh
- 122 - Cầu nguyện là chánh tín hay mê tín?
- 123 - Để việc phóng sinh thể hiện lòng từ bi đúng nghĩa
- 124 - Tự vấn về Pháp môn Tịnh độ
- 125 - Ý nghĩa tụng kinh Dược Sư và niệm Phật Dược Sư
- 126 - Pháp trợ niệm của Đức Phật
- 127 - Làm sao vui với chuyện thị phi?
- 128 - Đại lễ Vesak 2019: Sự kiện đối ngoại nhân dân
- 129 - Người gánh phân nghèo hèn và bài học Tâm không phân biệt của Đức Phật
- 130 - Bản ý của Tịnh độ tông
- 131 - Ba điều căn bản của người tu Phật
- 132 - Năm pháp khiến Chánh pháp không diệt ở thời Mạt pháp
- 133 - Về niên đại Hán dịch của kinh Na Tiên Tỳ-kheo
- 134 - Vua Trần Nhân Tông và tinh thần "Bụt ở trong nhà"
- 135 - Bản chất thời gian với ý nghĩa giải thoát của đạo Phật
- 136 - Đạo Phật bi quan hay lạc quan?
- 137 - Cực Lạc và Luân Hồi: Bất Nhị trong Tịnh Độ Tông
- 138 - Nguyễn Du và Phân Kinh Thạch Đài
- 139 - Cận cảnh ngôi chùa đăng cai đại lễ Vesak 2019 và khối Thiên thạch Mặt Trăng 600.000 USD
- 140 - Họp Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 141 - Pali - Việt đối chiếu
- 142 - Từ điển Bách khoa Phật giáo Việt Nam
- 143 - Từ điển Pháp số Tam Tạng
- 144 - Từ điển Hư Từ
- 145 - Từ điển Hán Phạn - Buddhist Chinese-Sanskrit
- 146 - Phật Quang Đại Từ điển
- 147 - Từ điển Thiền tông Hán - Việt
- 148 - Hạnh phúc là gì, mà ai cũng phải đi tìm?
- 149 - Tiếp tục đôn đốc, chuẩn bị cho Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 150 - Nghiên cứu về trải nghiệm cận tử thông qua thiền định
- 151 - Tiêu giải nghiệp chướng theo lời Phật dạy
- 152 - 7 điều suy ngẫm từ Đạt Lai Lạt Ma có thể thay đổi cuộc đời của bạn
- 153 - Ba bài học sâu sắc từ Phật giáo để có được sự an lạc giữa cuộc sống bộn bề
- 154 - Thiền sư Khương Tăng Hội: Sơ tổ của Thiền tông Việt Nam
- 155 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổng kết 6 tháng cuối năm 2018 và triển khai hoạt động năm 2019
- 156 - Hội nghị trù bị lần 2 Đại lễ Vesak 2019 tại Việt Nam
- 157 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đảnh lễ Hoà thượng Thiền sư Thích Thanh Từ
- 158 - Đại lễ Phật đản Vesak 2019 có gì đặc biệt?
- 159 - Bốn pháp thu phục lòng người
- 160 - Tổng hợp những lời dạy của Đức Phật hay và ý nghĩa
- 161 - Vô ngã vị tha - cách nhìn Phật giáo về công bằng xã hội
- 162 - Vô minh trong Phật giáo có ý nghĩa gì?
- 163 - 7 việc Phật dạy không đáng “hy sinh” trong đời
- 164 - Nuôi dưỡng lòng từ bi trong cuộc sống với 7 bước luyện tập
- 165 - Những câu nói truyền cảm hứng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 166 - Làm thế nào để có một đời sống đạo đức?
- 167 - Lắng nghe 108 lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma
- 168 - Khiêm tốn là phẩm đức của bậc đại trí
- 169 - Thiền sư Vạn Hạnh và tinh thần Phật giáo đồng hành cùng dân tộc
- 170 - Thiền sư Thường Chiếu – Người có công giao nhập 3 dòng Thiền phái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XIII
- 171 - Tại sao Thiền sư Thường Chiếu dám 'cãi' về Tổ Bồ Đề Đạt Ma?
- 172 - Phật dạy làm người quan trọng nhất là phải có lương thiện
- 173 - Đức Phật là người hạnh phúc!
- 174 - Ý nghĩa cầu nguyện trong đạo Phật
- 175 - Pháp lạc trong tu học
- 176 - Mê và giác
- 177 - Quán vô thường để chứng đạt vô ngã
- 178 - Lời Phật dạy: Sống vị tha là một trong những phép tắc đạo đức cao quý nhất!
- 179 - Lời Phật dạy dành cho những người hay phiền muộn
- 180 - Vì sao hạnh phúc không thể tách rời lòng vị tha?
- 181 - Video giới thiệu Đại lễ Phật Đản Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 182 - Lời Phật dạy về cách tạo dựng phúc đức cho sinh mệnh con người
- 183 - 3 bí ẩn diệu kỳ của thiền định
- 184 - Phật dạy cách buông bỏ mọi phiền não
- 185 - Những nét chính về cuộc đời Hòa thượng Tuyên Hóa
- 186 - Ban Văn hóa T.Ư họp bàn việc phục vụ Vesak 2019
- 187 - 6 chân lí của hạnh phúc từ lời Phật dạy
- 188 - 17 lời khuyên sâu sắc về cuộc sống từ Thiền sư Kodo Sawaki
- 189 - 50 chân lý bất biến của cuộc đời
- 190 - Phật dạy: Hết củi thì lửa tắt
- 191 - Hai thứ tự do
- 192 - Câu chuyện Đức Phật và 3 người đàn ông cùng bài học xương máu
- 193 - Trầm cảm dưới góc nhìn Phật giáo, ngồi Thiền chữa trầm cảm theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 194 - Nghĩ về Đại lễ Liên Hiệp Quốc Vesak 2019 từ những tách trà nóng kỷ niệm
- 195 - An ninh trật tự phục vụ Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019 đã sẵn sàng!
- 196 - Giáo hội Phật giáo Việt Nam triển khai công tác tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 197 - Giới đức nặng hơn đất, mạn cao hơn trời, hồi tưởng nhanh hơn gió và tư tưởng nhiều hơn cỏ!
- 198 - Quán chiếu tâm và đoạn ác tâm để làm sinh thiện tâm
- 199 - Sự ra đi bí ẩn của Tổ sư Hệ phái Khất sĩ Việt Nam Minh Đăng Quang 65 năm trước
- 200 - Cách tiếp cận của con người đối với hoà bình thế giới
- 201 - Thiền sư Khương Tăng Hội sinh ra trên đất Việt, truyền Phật giáo từ Giao Chỉ tới Đông Ngô
- 202 - Chuyển hóa sân hận bằng 5 phương cách theo lời đức Phật dạy!
- 203 - Tuyên Quang triển khai kế hoạch Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019
- 204 - Thiền sư Pháp Đảnh (Hàn Quốc): Đệ Nhất Trì luật-Đạo hạnh sáng ngời
- 205 - Tìm hiểu Thiền Quán tử thi - phép tu mạnh mẽ để nhận thức vô ngã tại Thái Lan
- 206 - Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019: Tôn vinh giá trị nhân văn, hòa bình
- 207 - Lời giảng vi diệu của Đức Phật về thuật Lãnh đạo
- 208 - Ý nghĩa đời sống
- 209 - Lịch trình dự kiến của Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019
- 210 - Lời Phật dạy sâu sắc về lòng hiếu thảo đối với cha mẹ
- 211 - Vì sao vua Lý Thánh Tông đã từng nổi giận đốt chùa rồi lại sám hối xây chùa
- 212 - Phép Hỏa quang tam muội của hai Thiền sư Việt
- 213 - Trút bỏ phiền ưu theo lời Phật dạy
- 214 - Công tác Tình nguyện viên phục vụ Đại lễ Vesak Liên hiệp quốc 2019
- 215 - Vì sao người Phật tử nên ăn chay?
- 216 - Tham lam là liều thuốc độc!
- 217 - Sống hạnh phúc theo lời Phật dạy
- 218 - Cơ sở 2 bệnh viện Bạch Mai ở Hà Nam sẽ phục vụ tốt cho Vesak 2019
- 219 - Công an Hà Nam triển khai kế hoạch giữ trật tự ATGT phục vụ Đại lễ Vesak 2019
- 220 - Nghiệp và Giải nghiệp theo Chánh pháp
- 221 - Các ban chuyên môn họp đúc kết công tác chuẩn bị cho Đại lễ Vesak 2019
- 222 - Phương thuốc của lòng vị tha
- 223 - Lời Phật dạy về đạo nghĩa trong gia đình
- 224 - HT.Từ Phong trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam
- 225 - Lời Phật dạy về cách quý trọng cuộc sống
- 226 - Pythagore và thuyết luân hồi
- 227 - Thường và vô thường
- 228 - Công tác chuẩn bị Đại lễ Vesak 2019 đang trong giai đoạn nước rút
- 229 - Báo hiếu cha mẹ theo lời Phật dạy
- 230 - Thanh lọc tâm để an lạc
- 231 - 1.500 đại biểu quốc tế dự Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 232 - Chí tâm vì người
- 233 - Soi lại mình
- 234 - Những cái vui trong đạo Phật
- 235 - Lời Phật dạy về 3 điều để trở thành người lương thiện
- 236 - Từ bi là cội nguồn và trái tim của Phật giáo
- 237 - Tha thứ để hóa giải oán thù
- 238 - Khai mạc Hội thảo khoa học về Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
- 239 - Niệm Phật và trị liệu
- 240 - Phật giáo TP.HCM họp đoàn tham dự Vesak LHQ 2019
- 241 - Tu chứng
- 242 - Tránh tạo nhân đau khổ theo lời Phật dạy
- 243 - Chân Không Diệu Hữu trong kinh Hoa Nghiêm
- 244 - Công bố chương trình chi tiết Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 245 - Đại lễ Phật đản Vesak 2019 sẽ bàn chuyện dùng công nghệ số có chánh niệm
- 246 - Bản năng - Hiểu thế nào cho đúng?
- 247 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những bài học sâu sắc giúp cuộc sống hạnh phúc
- 248 - Mở rộng con tim
- 249 - Sự khác biệt giữa Tưởng tri, Thức tri và Trí tuệ
- 250 - Nếp sống trí tuệ của người con Phật
- 251 - Suy nghĩ về khái niệm giải thoát sinh tử trong Đạo Phật
- 252 - Hội thảo khoa học về cư sĩ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền
- 253 - Bộ Công an kiểm tra công tác an ninh cho Vesak 2019
- 254 - Giá trị bình yên
- 255 - Dây trói bền chắc nhất
- 256 - Thông điệp Đại lễ Phật đản Vesak 2019 của Đức Pháp chủ GHPGVN Thích Phổ Tuệ
- 257 - Chánh niệm trước ác ma
- 258 - Oai lực của tâm từ
- 259 - Kiểm soát dục vọng qua góc nhìn Phật học và khoa học
- 260 - Phật giáo thế kỷ XXI
Đối diện với sự đau khổ đã được định chế hóa Phỏng vấn Giáo sư David R. Loy
- 261 - Phật dạy tâm bi tình yêu thương chân thật
- 262 - Hân hoan hướng về Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 263 - Điều phục ý căn
- 264 - Tránh xa 6 hành động làm hao tổn phúc đức
- 265 - Khoa học, nghệ thuật và tính tâm linh
- 266 - Lời Phật dạy sâu sắc về cách làm giàu chân chính
- 267 - Đốn ngộ và Tiệm ngộ trong Thiền tông
- 268 - Mười lợi ích khi tin Phật chân thật
- 269 - Lời Phật dạy về tác hại của việc uống rượu
- 270 - Các cấp độ nhận thức
- 271 - Diễn văn Đại lễ Phật đản PL.2563 – DL.2019 của Hòa thượng Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN
- 272 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam họp Quý 1 năm 2019
- 273 - Tu để được an lạc thân tâm trong kiếp này
- 274 - Thắng tri
- 275 - Tháng 7, bắt đầu ấn hành bộ Đại tạng kinh Việt Nam
- 276 - Tìm hiểu sự hình thành xe hoa, kiệu hoa Phật đản
- 277 - Ý nghĩa, nguồn gốc ngày đại lễ Vesak Liên hiệp quốc
- 278 - Họp báo trước thềm Đại lễ Vesak Liên hợp quốc 2019 tại Việt Nam
- 279 - Lời Phật dạy về tham, sân, si của con người
- 280 - Đại học Phật giáo Hungary thăm Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 281 - Thông tin chi tiết về công tác chuẩn bị Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 282 - Một cách tiếp cận chánh niệm và sự lãnh đạo có chánh niệm
- 283 - An approach to mindfulness and mindful leadership
- 284 - Hòa thượng Chủ tịch ICDV đến Việt Nam
- 285 - Lời Đức Phật dạy: Đi nhiều, khó tu!
- 286 - Có hiếu với mẹ cha tức là kính Phật
- 287 - Khai mạc Hội thảo Quốc tế chào mừng Đại lễ Phật đản LHQ Vesak 2019 tại chùa Tam Chúc
- 288 - Trọng thể khai mạc Đại lễ Phật đản - Vesak LHQ PL.2563 tại Việt Nam
- 289 - Hội thảo quốc tế chủ đề Vesak 2019 bằng Anh ngữ
- 290 - Toàn văn Tuyên bố Hà Nam 2019
- 291 - Bế mạc Đại lễ Vesak LHQ: Tuyên bố Hà Nam 2019
- 292 - Kinh hạt muối là gì?
- 293 - Vượt qua mười hai xứ
- 294 - Phương pháp tiếp cận Phật giáo về vấn đề phát triển kinh tế bền vững
- 295 - Vô ngã, tính Không và Khoa học Lượng tử
- 296 - Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi con người biết được lộ trình sinh tử của mình
- 297 - Long Thọ và Khoa học Lượng tử
- 298 - Thấy mọi thứ đang vận động để lặng yên
- 299 - Hạnh của đất
- 300 - Những nền tảng về quan điểm sinh thái của Thiền tông Phật giáo
- 301 - 12 câu hỏi về cuộc đời đáng suy ngẫm
- 302 - 9 cách thay đổi số phận khi áp dụng các giáo lý nhà Phật
- 303 - Suy tư về sự sống
- 304 - Thiền sư Norman cùng những lời khuyên về lời Phật dạy khi gặp khó khăn
- 305 - Lợi ích của sự biết đủ
- 306 - Mười lý do nên tu tập từ bi quán
- 307 - Tâm Minh Lê Đình Thám, biểu mẫu của người con Phật Việt Nam
- 308 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những lời khuyên nuôi dưỡng hạnh phúc
- 309 - Hiểu và Ngộ
- 310 - Trói buộc và giải thoát
- 311 - The Buddhist Analysis of the Significance of Meditation (bhāvanā) in Promoting Ethical Education in the Modern Society
- 312 - Tâm sinh tướng
- 313 - Văn hoá dung hợp cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo toàn cầu hiện nay
- 314 - Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo bằng
Chánh niệm giúp ngày ngày an vui
- 315 - Buddhist Approach to Mindful Leadership
through An Auspicious Day
- 316 - Thiền và tâm lý trị liệu
- 317 - Sống trong thực tại, bây giờ, và ở đây!
- 318 - Người học thiền thấu qua cửa sắc không
- 319 - Nước mắt và tâm từ bi của một vị thiền sư
- 320 - Như huyễn tam-muội
- 321 - Trí, bi và lạc trong kinh Lăng-già
- 322 - Đức Phật dạy buông bỏ những thứ tưởng là mãi mãi
- 323 - Hốt bụi ném người trên gió chỉ làm bẩn mình
- 324 - Lời Phật dạy sâu sắc về việc hãy sống trọn vẹn hạnh phúc trong hiện tại
- 325 - Không nên hủy nhục người tu hành chân chính
- 326 - Phản tưởng khổ là lạc
- 327 - Sức mạnh của niềm tin
- 328 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh và quan điểm về Phật giáo dấn thân
- 329 - Phương pháp hành thiền cơ bản
- 330 - Đức Đạt Lai Lạt Ma và những câu nói sâu sắc
- 331 - Phương pháp tiếp cận giáo pháp
- 332 - Chánh kiến đi hàng đầu
- 333 - Tu hành tánh Không trong Bồ-tát hạnh
- 334 - Nóng giận là lửa vô minh, lửa vô minh thì thiêu hủy rừng công đức
- 335 - Từ bi quán
- 336 - Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo bằng Chánh niệm giúp ngày ngày an vui
- 337 - Buddhist Approach to Mindful Leadership through An Auspicious Day
- 338 - Tại sao Đức Phật thường nói đến sự khổ đau?
- 339 - Khái niệm về cái chết theo quan điểm Phật giáo
- 340 - Tánh Không là giải thoát
- 341 - Vì sao đức Phật dạy ta nên kết bạn với người hiền trí
- 342 - Phật giáo và trí thức
- 343 - Bố thí, cúng dường cũng có năm bảy đường
- 344 - Chuyển hoá stress
- 345 - Thánh tẩy trần
- 346 - Nên chú tâm vào nội lạc
- 347 - Tam nghiệp và tịnh hóa nghiệp
- 348 - Pháp giới và Pháp giới Thể tánh
- 349 - Thể tánh của Tâm
- 350 - 7 tâm cần phát khởi khi thực hành sám hối
- 351 - Năm phương pháp đưa đến định tâm
- 352 - Phật giáo và đạo đức sinh học hiện đại
- 353 - Sự yên lặng của Đức Phật
- 354 - Lời Phật dạy sâu sắc về tác hại của lời nói dối
- 355 - Tản mạn chuyện sắc không
- 356 - Sự buông xuống sau cùng
- 357 - Bốn cấp độ thiền định
- 358 - Quán tâm trên tâm
- 359 - Thấy khổ để buông khổ
- 360 - Ánh sáng Như Lai
- 361 - Khách trọ trần gian
- 362 - Không bệnh giữa ốm đau
- 363 - Thiền chỉ và thiền quán
- 364 - Tất cả pháp đều là Phật pháp
- 365 - Tại sao có các tướng
- 366 - Tôi phải làm gì để cuộc sống hạnh phúc hơn?
- 367 - Chuyển hoá về Tịnh độ
- 368 - Hãy mỉm cười khi khó khăn đến gõ cửa
- 369 - Chánh kiến
- 370 - Câu chuyện người Kalama
- 371 - Pháp thoại từ khúc gỗ trôi sông
- 372 - Thường Bất Khinh
- 373 - Con đường đi đến Phật đạo
- 374 - Ăn chay
- 375 - Pháp giúp Bồ-tát tại gia thành tựu Bồ-đề vô thượng
- 376 - Muốn chết tốt, phải sống tốt
- 377 - Trí, bi và lạc trong kinh Lăng-già
- 378 - Khởi phát nguồn tâm
- 379 - Lấy thiện tâm giúp người, phúc báo muôn vạn kiếp
- 380 - Vô niệm
- 381 - Nghĩa "Như" của tất cả các pháp
- 382 - Bước thăng bằng trên đường không thăng bằng
- 383 - Quán huyễn trong Phật giáo Việt Nam
- 384 - Tính nhất quán xuyên suốt từ kinh Nguyên thuỷ đến kinh Đại thừa
- 385 - Khẩu nghiệp gây tổn thương người khác là một trong những nghiệp nặng nề nhất
- 386 - Căn bản triết lý và kinh điển của Thiền tông
- 387 - Nhờ lực của Bát-nhã
- 388 - Để Chánh pháp an trú lâu dài
- 389 - Khéo tu thì nổi
- 390 - Vụng tu thì chìm
- 391 - Quan điểm của Phật giáo về chiến tranh và xung đột
- 392 - Lành thay nếu được là học trò của Đức Phật
- 393 - Vai trò của Phật giáo đối với Tổng hạnh phúc quốc gia
- 394 - Mặc áo giáp đi xuyên qua lịch sử
- 395 - Thiền tông Việt Nam
- 396 - Viễn ly sanh y
- 397 - Đức Phật dạy pháp nhập Niết bàn ngay tại đây và bây giờ
- 398 - Phật đi khất thực
- 399 - Chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tự nhiên
- 400 - Vận dụng thiền quán vào xã hội hiện đại để góp phần xây dựng thế giới hòa bình an lạc
- 401 - Uẩn và Không
- 402 - Các Pháp duyên sinh, không thật
- 403 - Bát chánh đạo chính là Trung đạo
- 404 - Chánh niệm trong cuộc sống
- 405 - Thấy như huyễn tức là thấy Như Lai
- 406 - Quan hệ thực tiễn về nhân quả đạo Hiếu
- 407 - Thuyết lượng tử và sự di chuyển của tâm thức
- 408 - Như huyễn trong kinh Kim Cương
- 409 - Karl Marx & Thiền đi bộ
- 410 - Chữ Hiếu: Vẫn đi tìm một định nghĩa
- 411 - Thực tại là Chân như
- 412 - Uống nước nhớ nguồn
- 413 - Bốn ơn lớn mà người Phật tử cần nhớ
- 414 - Ngũ căn & ngũ lực
- 415 - Đi vào đời ác năm trược
- 416 - Những bình diện của tâm linh
- 417 - Tám ngọn gió
- 418 - Tinh thần hiếu đạo trong Kinh Địa Tạng
- 419 - Tri túc: Biết đủ, cách sống mang lại hạnh phúc
- 420 - Như Lai là người chỉ đường
- 421 - Quy trình của lòng nhân
- 422 - Tương ưng và an trụ
- 423 - HT.Thích Thanh Từ nói về "Vu lan mùa Báo hiếu"
- 424 - Nhà khoa học Albert Einstein và đạo Phật
- 425 - Phật tử và thiền
- 426 - Bất kỳ bạn ở đâu, giác ngộ ở đó
- 427 - Những kiến thức cơ bản về Luân hồi trong đạo Phật
- 428 - Chuyển hoá cuộc đời
- 429 - Tâm sân hận tạo nên bi kịch cuộc đời
- 430 - Nghiệp và nghiệp quả
- 431 - Gần đèn thì sáng
- 432 - Thấy biết như thật
- 433 - Tỉnh giác về cái chết
- 434 - Lời Phật dạy sâu sắc về việc hóa giải hận thù
- 435 - Nền tảng của niệm Phật
- 436 - Ba thân và mũ giáp
- 437 - Khổ đau lớn nhất đời người là gì?
- 438 - Quán tưởng
- 439 - 4 nỗi khổ mà mỗi người nên biết
- 440 - Nghiên cứu kinh Kim Cang phần Vô ngã
- 441 - Đức Phật dạy về 3 loại hạnh phúc
- 442 - Bố thí - Việc làm nhỏ mang giá trị lớn lao
- 443 - Lời Phật dạy sâu sắc về "Bạn"
- 444 - Bát Khổ: Chân lý thứ nhất bao quát Tứ Diệu Đế
- 445 - Nghệ thuật sống: Thiền Minh sát tuệ
- 446 - Lời Phật dạy về "Lòng tin"
- 447 - Nên đặt lòng tin như thế nào?
- 448 - Có pháp đốt cháy và pháp không đốt cháy
- 449 - “Sinh tử tức Niết Bàn” và ý nghĩa
- 450 - Vô ngã trong tư tưởng Phật giáo
- 451 - Sát sinh và hậu quả dưới góc nhìn của Phật giáo
- 452 - Niềm tin và trí tuệ
- 453 - Kho tàng của Phật giáo
- 454 - Giá trị bốn chân lý vĩ đại của Phật giáo: Tứ Diệu Đế
- 455 - Giữ tâm ý trong sạch
- 456 - Nhị đế là gì?
- 457 - Người trí biết nhớ ơn & báo ơn
- 458 - "Đau" phải chăng đã là "khổ"
- 459 - Trách nhiệm phổ quát
- 460 - Trầm tư ý nghĩa thực tiễn về Tịnh độ
- 461 - Tuỳ niệm pháp môn tu tập nhập pháp lưu
- 462 - Ngũ tâm hương
- 463 - Tất cả chúng sinh là mẹ
- 464 - Thiểu dục tri túc: Một cách sống hạnh phúc
- 465 - Chân lý Phật giáo là gì?
- 466 - Lời dạy về tình yêu đích thực của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 467 - Sự thật về con người
- 468 - Sự hấp dẫn của đạo Phật
- 469 - Gợi mở lối đi giác ngộ
- 470 - Tu hành như khúc gỗ trôi sông
- 471 - Tản mạn về chữ Hiếu hôm nay
- 472 - Ý nghĩa đời người
- 473 - Tâm này là Phật
- 474 - Không lấy cái tôi làm trung tâm
- 475 - 20 điều nhất định phải tu tập trong đời người
- 476 - Kẻ lọc vàng
- 477 - Tại sao lại có sanh tử
- 478 - Đại tạng kinh Việt Nam: Lại thắp lên niềm hy vọng
- 479 - HT.Thích Giác Toàn, Phó Chủ tịch HĐTS, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học VN: “Thực hiện Đại tạng kinh là sứ mệnh xuyên suốt của Giáo hội”
- 480 - Người xuyên tạc Như Lai
- 481 - Mở rộng thiện duyên
- 482 - Nhận diện đau khổ và diệt trừ đau khổ
- 483 - Chết là lẽ đương nhiên
- 484 - TP.HCM: Văn phòng Viện Nghiên cứu Phật học VN và Học viện Phật giáo viếng tang NT. Ngoạt Liên
- 485 - Bí quyết hạnh phúc theo lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 486 - Nghiệp chi phối đời sống nhân sinh
- 487 - 5 việc làm tạo quả báo xấu, ảnh hưởng lớn tới cả cuộc đời bạn
- 488 - Đức Phật giảng như thế nào về cái chết và quy luật sinh lão bệnh tử trên đời?
- 489 - Khéo tích công bồi đức
- 490 - Thư mời viết bài tham dự hội thảo khoa học : "Di sản Việt Nam - Ấn Độ: Mối quan hệ xuyên văn hoá"
- 491 - Hướng nội hướng ngoại
- 492 - Trở lại vạch xuất phát không phải là thảm họa, cùng lắm là chơi lại một lần nữa
- 493 - Vấn đề tâm linh dưới góc nhìn Phật giáo
- 494 - Phòng hộ sáu căn
- 495 - Suy ngẫm lời Phật dạy
- 496 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh với pháp thoại "Lắng nghe sâu vì hòa bình"
- 497 - Lời Phật dạy về nhân quả báo ứng
- 498 - Có sinh ắt có diệt
- 499 - Tu hành cần vững tâm
- 500 - Lời Phật dạy để gìn giữ giới hạnh
- 501 - Thư mời viết bài hội thảo khoa học "Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh: Lịch sử hình thành và phát triển"
- 502 - Kế hoạch hội thảo khoa học "Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh: Lịch sử hình thành và phát triển"
- 503 - Ý nghĩa Pháp Duyên khởi
- 504 - Buông xả hơn thua nhưng không im lặng
- 505 - Giáo lý Năm uẩn
- 506 - Công đức của việc trì kinh
- 507 - Như lý duyên khởi
- 508 - Sám hối như thế nào là đúng?
- 509 - Một câu chuyện về sức mạnh của lòng từ
- 510 - Thiền sư Huyền Quang và những đóng góp cho Phật giáo đời Trần
- 511 - Hiểu đúng "chữ khổ" trong Phật giáo
- 512 - 10 lời Phật dạy sâu sắc giúp thay đổi cuộc đời bạn
- 513 - Tuổi trẻ với hạnh nhẫn nhục
- 514 - Sống một mình
- 515 - Thoát ly khổ ách
- 516 - Phật giáo nhập thế và các vấn đề xã hội đương đại ở Việt Nam
- 517 - Niệm Phật
- 518 - Sự liên hệ giữa thế giới này và Tịnh độ Tây phương
- 519 - Phật dạy 20 câu thiền ngữ giúp cuộc sống an nhiên, vui vẻ
- 520 - Nghiệp ai nấy mang, duyên ai nấy nhận
- 521 - Nhận rõ chính mình
- 522 - Đạo Phật tiếp cận với đời sống
- 523 - Lời Phật dạy về quán vô thường
- 524 - Không tạo tác
- 525 - Phép tu im lặng
- 526 - Đức Phật và con người hiện đại
- 527 - Lời Phật dạy: Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với ta
- 528 - Viện Nghiên cứu Phật học VN tổng kết Phật sự 2019
- 529 - Đừng để "Phật giáo u buồn" như thế!
- 530 - Đời sống từ bi
- 531 - Làm thế nào để nuôi dưỡng từ bi tâm?
- 532 - Khó thay nghe Chánh pháp
- 533 - Phóng sinh chân chính
- 534 - Con người chân thật nơi chính mình
- 535 - Chân không diệu hữu tự tại thong dong
- 536 - Chân lý qua nghĩa duyên sinh mùa xuân
- 537 - Tỉnh thức giữa quần mê
- 538 - Xuân, vui với Hoà thượng Bố Đại
- 539 - Hoa tàn hoa nở chỉ là Xuân
- 540 - Xuân Di-lặc
- 541 - Mùa xuân trong đạo Phật
- 542 - Đón một mùa xuân an lạc
- 543 - Thư chúc tết xuân Canh Tý của Đức Pháp chủ GHPGVN
- 544 - Ý nghĩa cành mai ngày tết
- 545 - Đầu Xuân, bàn về lới khấn "Nam mô A Di Đà Phật"
- 546 - Phật pháp xây dựng thế gian
- 547 - Ngạ quỷ nghe kinh
- 548 - Lời Phật dạy: Cách để có được hành vi tốt
- 549 - Nobel Kinh tế 2019 từ góc nhìn Phật giáo
- 550 - Triết lý Cân bằng tự nhiên đoạt giải Nobel Y sinh 2019
- 551 - Tổng quan về Giới học
- 552 - Tổng quan về Định học
- 553 - Tổng quan về Tuệ học
- 554 - Đi xem hoa hậu
- 555 - "Không" có ý nghĩa gì?
- 556 - Minh và vô minh
- 557 - Tinh tấn trong đạo Phật khác với nỗ lực ở thế gian
- 558 - Thuyết pháp không vì tiếng tăm
- 559 - Khoa học và Phật giáo
- 560 - Tánh Không, Quang minh và Năng lực
- 561 - Phật giáo - tôn giáo của duy lý
- 562 - Thiền định Phật giáo và khoa sinh học
- 563 - Mục đích của đời người
- 564 - Tình yêu thương là liều thuốc tiên chữa bệnh
- 565 - Tinh tấn quá mức cũng không hẳn là tốt
- 566 - Ý nghĩa lợi tha
- 567 - Hương hoa cúng dường chư Phật
- 568 - Tính chất của nghiệp
- 569 - Chánh niệm để hoá giải căng thẳng
- 570 - Lòng lặng thì nghiệp yên
- 571 - Hạnh tu bố thí
- 572 - Lễ hội vào thành
- 573 - Tâm của người ngồi thiền
- 574 - Một đoạn nhân duyên
- 575 - Nhị đế và Tứ tất-đàn
- 576 - Các pháp là Chân Như vốn toàn thiện
- 577 - Hiểu về Sinh Tử - Cơ hội giải thoát ngàn vàng
- 578 - Nơi lưu trữ mộc bản Đại tạng kinh Hàn Quốc
- 579 - Hàn Quốc: Có 81.352 bản Cao Ly Bát vạn Đại Tạng kinh
- 580 - Đại Chánh Tạng - Lời giới thiệu
- 581 - Pháp đơn giản
- 582 - Đức Phật - Bậc thức tỉnh cho nhân thế
- 583 - Tứ đại trọng ân trong Phật giáo
- 584 - Mục đích cuối cùng của sự tu học là chấm dứt tái sinh
- 585 - Hạnh phúc là buông xả?
- 586 - Tư tưởng Trung đạo qua Bát bất
- 587 - Niệm Phật chớ sợ cười, đừng chờ hẹn
- 588 - Soi gương Chánh pháp
- 589 - Công đức chiêm bái Phật tích
- 590 - Không có kẻ chiến bại
- 591 - Thực hành pháp và tuỳ pháp
- 592 - Bảy pháp làm cho Chánh pháp tăng trưởng
- 593 - Im lặng như pháp
- 594 - Người ngu nghĩ là ngọt
- 595 - Như Lai thọ lượng
- 596 - Bảy pháp cung kính làm cho Chánh pháp tăng trưởng
- 597 - Ra mắt Ban Biên tập và ấn hành Thánh điển Phật giáo VN
- 598 - Tam pháp ấn và sự diệt khổ
- 599 - Thư thỉnh mời viết bài kỷ yếu Trưởng lão Hoà thượng Thích Phước Sơn
- 600 - Giáo pháp như chiếc bè qua sông
- 601 - Nimitta trong Thanh tịnh đạo
- 602 - Một tâm thanh tịnh
- 603 - Giá trị phổ quát của thiền & thuyết nghiệp của đạo Phật
- 604 - Phật huệ, Phật đức, Phật lực hằng hữu miên viễn
- 605 - Pháp thân của chư Phật
- 606 - Phàm tăng & Thánh tăng
- 607 - Phật dạy: Nhìn nước để thấy người
- 608 - Bốn hạng người đáng thân cận
- 609 - Độ nhất thiết khổ ách
- 610 - Một số lời dạy của Đức Phật về Hiếu Hạnh
- 611 - Báo hiếu trong hành vi tôn giáo của Phật tử
- 612 - Vì sao Đức Phật dạy ân đức cha mẹ thật khó báo đền?
- 613 - Trầm tư về đạo hiếu
- 614 - Chữ Hiếu cũng cần vun đắp
- 615 - Phật dạy: Hãy cúng dường cha mẹ
- 616 - Định lượng chữ Hiếu
- 617 - TP. HCM: Họp Ban Biên tập và Ấn hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 618 - Kính thuận với cha mẹ
- 619 - Đạo nghĩa thầy trò
- 620 - Sống theo lời Phật: Mạng sống vô thường
- 621 - Ý dẫn đầu các pháp
- 622 - Phật dạy pháp "trừ sầu lo"
- 623 - Lời Phật dạy cách đối mặt với kẻ tiểu nhân
- 624 - Lược sử Trúc Lâm Tam tổ
- 625 - Niềm tin vào Tam bảo và lòng tự tín của người Phật tử
- 626 - Biết lắng nghe pháp
- 627 - Mối tương quan giữa Đức Phật và thiên nhiên
- 628 - Hưởng thụ lạc bị Như Lai chê trách
- 629 - Pháp sanh diệt
- 630 - Sắp ra mắt ấn bản kinh Trường bộ & Trung bộ
- 631 - Biển cả và Phật pháp
- 632 - Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ra mắt ấn phẩm Kinh Trường Bộ và Kinh Trung Bộ
- 633 - Phóng sự: Ý Nghĩa Tam Tạng Thánh Điển Phật Giáo Việt Nam
- 634 - An Viên Focus: Hành trình Tam tạng Thánh Điển Phật giáo
- 635 - Viện Nghiên cứu Phật Học Việt Nam
- 636 - Cách đối trị sợ hãi theo quan điểm Phật giáo
- 637 - Kế hoạch phối hợp tổ chức hội thảo khoa học toàn quốc về " Phát huy vai trò Tăng, Ni Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc"
- 638 - Thư mời viết bài tham luận
- 639 - Lời Phật dạy: Hãy nhớ tinh tấn, chớ có lười biếng
- 640 - Khuyến khích tu pháp sai mắc tội vô lượng
- 641 - Suy tư & nhận biết
- 642 - Hà Nội: Nữ giới Phật giáo với lĩnh vực báo chí
- 643 - Biết pháp, biết nghĩa, biết thời
- 644 - Biết tiết độ, biết mình, biết hội chúng
- 645 - Thoát khỏi sợ hãi
- 646 - Biết sự hơn kém của người
- 647 - Tu tập cũng như giữ thành
- 648 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổng kết Phật sự 2020
- 649 - Mê tín hay không mê tín?
- 650 - Xuân trong cửa Thiền
- 651 - Thư chúc Tết xuân Tân Sửu của Đức Pháp chủ
- 652 - Hạnh phúc của người tu
- 653 - Đắm say trong dục vui ít khổ nhiều
- 654 - Ngón tay chỉ mặt trăng: Thông điệp kinh Lăng-già
- 655 - Cầu nguyện qua cái nhìn Duyên khởi
- 656 - Nói như hoa như mật
- 657 - Thư mời viết bài tham luận cho hội thảo quốc gia "Giáo hội Phật giáo Việt nam: sự hình thành và phát triển"
- 658 - Thông báo về việc phát hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 659 - Thông bạch v/v Ấn hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 660 - Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Lời chứng minh
- 661 - Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Lời giới thiệu
- 662 - Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Lời nói đầu
- 663 - Giáo hoá bình đẳng
- 664 - Đôi điều về học giới luật Phật giáo
- 665 - Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Phước Sơn (1938-2020)
- 666 - Thông bạch v/v Cúng dường Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 667 - DẪN LUẬN KINH TRƯỜNG BỘ
- 668 - DẪN LUẬN KINH TRUNG BỘ
- 669 - DẪN LUẬN KINH TƯƠNG ƯNG BỘ
- 670 - DẪN LUẬN KINH TĂNG CHI BỘ
- 671 - Ích lợi của việc sám hối
- 672 - Trị liệu bệnh khổ
- 673 - "Công ơn cha mẹ" theo lời Phật dạy
- 674 - Thiểu dục và tri túc trong kinh Di giáo
- 675 - Thành tựu chánh kiến
- 676 - Phật dạy:Nên nói cái gì và im lặng thế nào?
- 677 - Đã gieo trồng thiện căn dẫu chết cũng không sợ
- 678 - Nếu có 5 đức tính này thì người tu ở đâu cũng được thương kính
- 679 - Hướng đến thống nhất tổng mục lục cho Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 680 - Khai mạc hội thảo online "Giáo hội Phật giáo Việt Nam: 40 năm hội nhập và phát triển cùng đất nước"
- 681 - Ban Thường trực Ban Biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam họp với Trung tâm Pāli học
- 682 - Thiền Đại thừa và Tối thượng thừa
- 683 - Giữ giới như giữ rễ cho cây
- 684 - Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh khánh tuế Hòa thượng Thích Giác Toàn
- 685 - Để tâm giải thoát được thuần thục
- 686 - Viện Nghiên cứu Phật học VN chúc Tết Trưởng lão Hòa thượng Quyền Pháp chủ GHPGVN
- 687 - Viện Nghiên cứu Phật học VN sẽ tổ chức nhiều hội thảo trong năm 2022
- 688 - Sự mầu nhiệm của lòng biết ơn
- 689 - Viện Nghiên cứu Phật học VN tổ chức tổng kết nhiệm kỳ vào cuối tháng 10-2022
- 690 - Hòa thượng Thích Giác Toàn: "Thực hiện Đại tạng kinh là sứ mệnh xuyên suốt của Giáo hội”
- 691 - Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Phật học VN dâng hương tưởng niệm Hòa thượng Thích Minh Cảnh
Tất cả mọi người, ai sinh ra trên cõi đời này đều phải chịu sự chi phối của nghiệp. Người phật tử mà không hiểu rõ ràng, cặn kẽ về nghiệp báo, thì sự tu hành khó mà đạt đến chỗ an lạc, giác ngộ và giải thoát. Vậy nghiệp là gì mà phật tử chúng ta cần phải hiểu để áp dụng trong đời sống hằng ngày?
Nghiệp rất đa dạng, phức tạp và phong phú, bởi nghiệp là sự kết tụ của những năng lực, những hành động được lặp đi, lặp lại nhiều lần qua thân-miệng-ý, lâu ngày trở thành thói quen; rồi thói quen đó có sức mạnh chi phối, dẫn dắt thần thức chúng ta đi vào trong luân hồi sinh tử.
Tuy nghiệp rất đa dạng và phức tạp, không cố định như ta lầm tưởng, do đó mình có thể thay đổi thông qua sự tinh cần tu tập, hành trì những lời Phật dạy, chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt. Nghiệp gồm có cộng nghiệp và biệt nghiệp. Cộng nghiệp là nghiệp chung của nhiều người, biệt nghiệp là nghiệp riêng của từng người.
Nghiệp là thói quen huân tập lâu ngày thuần thục, tạo thành sức mạnh, có khả năng chi phối mọi người sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày. Ngay từ khi mở mắt chào đời, con người đã chịu nghiệp nhân của quá khứ, dần dần khôn lớn, con người tiếp tục tạo tác và huân tập thêm những nghiệp nhân mới.
Ai biết sống gần gũi những người hiền thiện, đạo đức, có nhân cách và phẩm chất cao đẹp, hay làm những điều hay lẽ phải, nhờ sống gần người hiền thiện nên mình cũng bắt chước làm người tốt theo, và có thể giúp ích cho gia đình, xã hội, không vì quyền lợi cá nhân.
Còn người hay sống gần gũi những kẻ xấu ác, bất lương, bất thiện, lâu ngày sẽ bị tiêm nhiễm thói hư, tật xấu, tự làm khổ mình, hại người, và sẽ bị mọi người khinh chê, xa lánh.
Cũng vậy, chúng ta sinh ra trong cuộc đời này, mỗi người đều phải mang theo nghiệp riêng của mình. Vì thế, trong một gia đình, nhiều người cùng sống chung với nhau, nhưng mỗi người chấp giữ và làm theo nghiệp riêng của mình, nên không ai chịu thừa nhận nghiệp riêng của người khác. Do đó, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em trong nhà không có sự hòa hợp với nhau là vậy đó, vì ta không biết tôn trọng và nhường nhịn lẫn nhau.
Chính vì thế, trong một cộng đồng xã hội mới có sự tranh chấp, cãi vã, xung đột, không chịu nhường nhịn, gây đau khổ, bất hạnh cho nhau.Trong gia đình, người chồng huân tập nghiệp của người nam, người vợ huân tập nghiệp của người nữ, hai nghiệp này không giống nhau, đôi khi nghiệp của hai vợ chồng có nhiều điểm sai biệt và tương đồng với nhau. Cho nên, có nhiều cặp vợ chồng gây cãi, đánh đập với nhau hoài, chỉ vì người nào cũng chấp cái lý lẽ, cái hành động của mình là đúng, không chịu thông cảm, tha thứ cho nhau, để tạo nên bầu không khí gia đình ấm êm, an lành, hạnh phúc.
Xưa có một gia đình nọ, người vợ biết lo làm ăn, tiết kiệm, luôn tròn bổn phận người vợ đối với chồng, biết quan tâm, lo lắng, chăm sóc cho con cái đàng hoàng. Ngược lại, người chồng thì bê tha, biếng nhác, rượu chè, cờ bạc. Mỗi lần ông cờ bạc bị thua, về nhà kiếm chuyện gây gỗ với bà, nếu vợ không đáp ứng đủ các thứ cho ông, thì bị ông chửi mắng, đánh đập tàn nhẫn. Người trong nhà và hàng xóm ai thấy cũng thương tâm, không biết bà đã gieo tạo nghiệp nhân gì mà phải chịu quả báo như thế. Mọi người thắc mắc tại sao bà lại không chịu ly dị, bà nói vì bà vẫn còn thương chồng, nên bà không ly dị.
Bởi do mỗi người đều có nghiệp riêng của mình, không ai giống ai. Kết nghĩa vợ chồng với nhau mà sống bất hạnh, khổ đau như vậy là do hai người đã có tạo nghiệp ngang trái, nợ nần với nhau, nên dù bị đánh đập, chửi mắng, đối xử với nhau thậm tệ, mà người ta vẫn cứ thương nhau, không thể rời xa nhau được.
Ai thấu hiểu được vấn đề nghiệp riêng này, họ sẽ dễ dàng thông cảm và tha thứ cho nhau. Chỉ vì ta không thường xuyên quán chiếu, hoặc thiếu tu hành, nên mới xảy ra nhiều điều bất hạnh như thế. Do vậy, chúng ta thấy, nhiều người sinh ra trong một gia đình, cùng cha, cùng mẹ, cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc, cùng học hành, thế mà mỗi người mang một tính khí khác nhau. Sự sai biệt ấy là do nghiệp riêng của mỗi người tạo nên, còn việc họ được sinh ra và chung sống trong một gia đình là do họ cũng có một số nghiệp chung với nhau. Những người có nghiệp duyên với nhau là do họ đã có cộng nghiệp với nhau từ kiếp trước, nên đời này họ mới phải chịu chung một hoàn cảnh nhất định nào đó.
Nghiệp chung và nghiệp riêng
Trong thời Phật còn tại thế, tại núi Linh Thứu, cùng lúc có nhiều đoàn Tỳ kheo đi thiền hành. Đoàn thứ nhất đi theo Ngài Xá Lợi Phất, đoàn thứ hai đi theo Ngài Mục Kiền Liên, đoàn thứ ba đi theo Ngài Phú Lâu Na, đoàn thứ tư đi theo Ngài A Na Luật, đoàn thứ năm đi theo Ngài Đề Bà Đạt Đa… Khi thấy các đoàn tỳ kheo hành thiền riêng biệt như vậy, đức Phật mới nói rằng: “Đoàn Tỳ kheo đi theo Ngài Xá Lợi Phất có nghiệp chung với Ngài, nên có trí tuệ đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo Ngài Mục Kiền Liên có nghiệp chung là thần thông đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo Ngài Phú Lâu Na có cộng nghiệp là thuyết pháp đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo Ngài A Na Luật có nghiệp chung là thiên nhãn đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo Ngài Đề Bà Đạt Đa có nghiệp chung xấu ác, tranh giành, giết chóc, sau này dễ bị đoạ lạc”.
Tuy nhiên, không phải ai theo ngài Xá Lợi Phất là có trí tuệ đệ nhất, mà cần phải có thời gian hành trì, học hỏi, vì ai cũng có nghiệp riêng của mình, nên mức độ đạt được tuỳ theo khả năng, không nhất định là ai cũng được như vậy.
Do đó, nghiệp cũng không cố định, có thể thay đổi được, vì sao? Vì nghiệp từ thân-miệng-ý tạo tác mà thành, tuy có tác ý nhưng không thật. Cái gốc của việc tạo nghiệp lành, nghiệp ác không có thật, bởi do si mê, ngu muội, mà tạo tác thành nghiệp dữ; nếu ta biết định tĩnh, sáng suốt, thì tạo tác nên nghiệp lành.
Phật dạy, nghiệp là cái không thật, tuy biết nó không thật, nhưng nếu si mê, để bị dính mắc nghiệp xấu ác, thì sẽ thọ quả khổ đau không ai tránh khỏi, chỉ có người biết tu tập, làm nhiều điều thiện lành thì quả xấu sẽ nhẹ hơn. Đối với thế gian, người khôn ngoan có thể che giấu, trốn tránh tội lỗi, nhưng đối với nghiệp báo thì ai tạo nghiệp gì thì phải chịu quả ấy, không thể trốn tránh vào đâu được; vì khi tạo nghiệp thì mắt thấy, tai nghe, thân thể cảm thọ, chủng từ nghiệp kết tụ, lưu trữ vào tàng thức, chờ khi hội đủ nhân duyên thì nghiệp sẽ trổ ra.
Có người cho rằng, thân này hành động tạo nghiệp thiện hay ác, đến khi chết thì những hành động ấy đâu còn nữa, chỉ còn lại cái xác nằm trơ, rồi thối rữa, rã tan, làm sao biết được nghiệp ấy còn hay mất?
Đây là quan niệm hết sức sai lầm của không ít người lầm chấp, cho rằng chết là hết, không có nhân quả, không có tội phước, nên họ mặc tình hưởng thụ các dục lạc thế gian, tha hồ gây tạo tội lỗi, có khi gây nên tội ác tày trời mà lòng không chút ân hận. Chính cũng vì quan niệm sai lầm như vậy mà bản thân tôi hơn nửa đời người đã gây ra biết bao lầm lỗi. Nhờ duyên gặp được Tam Bảo, gặp được Phật pháp, gặp được bậc minh sư chân chính, tôi mới quay đầu làm lại cuộc đời, làm mới lại chính mình. Nếu không nhờ Tam Bảo, nhờ Phật Pháp và minh sư chỉ giáo, hôm nay tôi làm gì có cơ hội được chia sẻ cùng với quý phật tử ở đây.
Khoảng năm Mậu Thân (1968), lúc ấy tôi chỉ là một cậu thiếu nhi mà đã biết hút thuốc, uống rượu, cờ bạc. Vậy cái gì đã xuôi khiến, thúc giục tôi đi vào con đường hư hỏng, sa đoạ quá sớm như vậy? Điều ấy trong nhà Phật gọi là tập nghiệp. Tập nghiệp đời trước cộng với sở thích trong đời hiện tại đưa đẩy chúng ta vào hố sâu tội lỗi.
Thế cho nên, ngay tại đây và bây giờ, quý vị đã có duyên được đến chùa nghe pháp, tụng kinh, lễ Phật, sám hối, tức là quý vị đã có hạt giống nghiệp lành với nhau từ nhiều đời trước rồi. Nếu không, bây giờ quý vị đã ngồi ở nhà mở truyền hình xem phim, hoặc đi chơi chỗ này, chỗ kia như bao người khác, chứ quý vị đâu có muốn đến chùa nghe pháp, học Phật với nhau như thế này. Đây đúng thật là một duyên lành hạnh phúc cho đời mình trong hiện tại, và nó sẽ còn lưu giữ để duy trì tới kiếp sau.
Hiện tại, quý phật tử đã có phước duyên thiện lành, tốt đẹp rồi, quý vị hãy xem nó như một món ăn tinh thần, ráng mà duy trì, ráng mà phát huy, lúc nào thiếu nó mà quý vị cảm thấy khó chịu thì quý vị nên mừng, bởi vì quý vị đã huân tập được một thói quen tốt. Trong nhà Phật thường nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Ở đây, quý vị đã có được thân người trọn vẹn, khoẻ mạnh, lại biết nghe Phật pháp, và còn biết áp dụng Phật pháp để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.
Trong kinh, Phật thường nói: “Nghiệp theo ta như bóng với hình, dù trải qua trăm kiếp, ngàn đời vẫn không bao giờ bị mất, khi nào hội đủ nhân duyên thì quả báo tự nó hiện ra, không một ai cưỡng lại hay làm sai lệch được”.
Có một thí dụ cụ thể cho chúng ta thấy nghiệp không bao giờ mất. Có hai người khách qua sông, một người là thương gia mua bán, mang theo nhiều tiền bạc, của cải; một người chuyên nghề dạy học, chỉ mang chút ít sách vở và tiền lộ phí. Thuyền qua đến giữa sông, bất thần bị chìm, hai người may mắn được cứu và thoát chết, nhưng hành lý, tư trang, tiền bạc của hai người đều bị dòng nước cuốn trôi mất hết. Cả hai người đều trắng tay, riêng cái hiểu biết của nhà giáo dục không bị mất mát chút nào. Vì sao? Vì kiến thức là cái chuyên môn đã huân tập qua nhiều năm tháng, tức cái sở trường riêng của mỗi người, còn gọi là nghề hay nghề nghiệp, nên nó không bị mất.
Do đó, quý phật tử tại gia nên lưu ý, khi ta mới sinh ra với hai bàn tay trắng, đến lúc chết đi cũng không mang được gì, duy chỉ có nghiệp lành dữ, xấu tốt, là mình phải mang theo. Lúc ấy, những người thân thương mình nhất như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bạn bè, không giúp gì cho ta được. Vì vậy, quý vị cần nên thấy biết rõ ràng về nghiệp quả, để khi ta gặp nhiều bất trắc, mình không quá đau khổ, bi lụy.
Và ta nên nhớ rằng, khi chúng ta đã tạo được nhiều nghiệp lành, thì dù cho qua nhiều biến đổi, thân xác này chết đi, tan rã thành cát bụi, nhưng nghiệp thức tốt đó vẫn còn, không mất. Khi chúng ta rời bỏ sự sống, bỏ lại thế gian tất cả gia tài, sự nghiệp, vợ chồng, con cái, họ hàng, thân tộc, bạn bè thân hữu, mình chỉ mang theo nghiệp lành, nghiệp dữ mình đã gây tạo trong đời mà thôi. Đây là một lẽ thật, quý vị cần biết để cố gắng gieo tạo nghiệp lành.
Quả báo của ác nghiệp quá khứ
Một gia đình nọ sống trong làng đánh cá, một bà mẹ có thai và cả làng làm ăn sa sút, nhiều chuyến ra khơi không đánh bắt được cá tôm gì, nhiều gia đình lâm vào cảnh khó khăn, đói kém. Trước tình hình như vậy, các bô lão trong làng mới họp lại với nhau để bàn bạc, tìm xem nguyên nhân vì sao dân làng gặp vận hạn như thế.
Một số người cho rằng, do bà mẹ kia đã lớn tuổi mà lại mang thai là điều quái dị, không hợp luật trời, vì thế dân làng mới chịu cảnh làm ăn thất bát, khó khăn. Một số người khác không nhất trí với ý kiến ấy, cuối cùng làng chia ra làm hai nhóm ra khơi, đánh bắt riêng biệt.
Trong nhiều chuyến ra khơi, nhóm người không tin việc bà mẹ già mang thai, thường xuyên bị nạn, không đánh bắt được cá; nhóm người tin việc ấy thì chuyến nào cũng đánh bắt đầy thuyền. Điều này khiến cả làng tin rằng, bà mẹ mang thai kia chính là nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt, khó khăn của làng. Cuối cùng, cả làng quyết định đuổi bà ấy khỏi làng, không cần biết sự sống của bà sẽ ra sao.
Bà ra đi trong tình cảnh vô cùng bi đát, không có thứ gì mang theo, lại đang lúc bụng mang dạ chửa, bà lang thang đó đây, vất vả xin ăn sống qua ngày. Lúc ở nhà còn có chồng chăm lo, nhà cửa đàng hoàng, giờ đây với thân phận một người ăn mày không nhà, không cửa, sống bờ ngủ bụi, nhiều khi vì quá mệt, không xin được chút gì, bị đói khát, bà muốn phá đi cái thai trong bụng để tìm sự thảnh thơi cho riêng mình. Nhưng vì cái thai là sự đầu thai của một vị sẽ chứng A La Hán trong kiếp này, nên thai nhi có khả năng chuyển tâm, làm cho bà mẹ không đủ can đảm huỷ hoại cái bào thai ấy.
Thời gian trôi qua, đứa con của bà cũng được ra đời với bao khó khăn chồng chất. Trong những ngày sinh con, bà phải một thân, một mình tự lo mọi thứ, khổ sở tột cùng, bà vẫn cắn răng chịu đựng. Sinh con được mấy ngày, vừa khoẻ được một chút, bà lại phải ẵm con, tiếp tục cuộc hành trình với thân phận ăn mày, rày đây mai đó, để kiếm chút cơm thừa, canh cặn.
Từ đây, trong cuộc mưu sinh, bà lại có thêm đứa bé bên mình. Hai mẹ con cùng nhau lang thang hết làng này sang xóm nọ, rong ruổi khắp mọi nẻo đường, nhưng vẫn không đủ sống, phải đói khát, vật vờ. Ngày qua ngày, bữa đói, bữa no, áo quần rách rưới, thật chẳng giống ai, nhiều lúc đói lả tưởng chừng không sao sống nổi.
Vậy mà bà vẫn sống để nuôi đứa bé ốm o, gầy mòn. Bà lang thang xin ăn lây lất sống qua ngày, cho đến năm chú bé khoảng ba bốn tuổi. Một hôm, hai mẹ con vào một gia đình giàu có xin ăn, vì thương con phải chịu cảnh ăn mày, thiếu thốn, đói khát thường xuyên, bà bỏ lại đứa con trong vườn của người nhà giàu ấy, rồi trốn đi biệt tăm biệt tích, với hy vọng con mình sẽ được người nhà ấy nuôi nấng tử tế, đàng hoàng.
Bà nghĩ rằng, làm như vậy là để người giàu thương tâm mà nuôi đứa bé. Dù từ bỏ đứa con thân yêu, lòng bà xót xa, đau đớn như đứt từng khúc ruột, lúc nào nước mắt cũng tuôn tràn, quên ăn, bỏ ngủ, nhưng bà hy vọng con mình không khổ như kiếp ăn mày lâu nay.
Nhưng cuộc đời đâu có dễ dàng như vậy, bởi vì nghiệp báo đâu cho phép mình muốn là được. Từ khi người mẹ bỏ đi, đứa bé càng khốn khổ hơn, một mình nó tự xin ăn, có lúc phải lượm từng chút cơm thừa, canh cặn người ta vứt đi để sống qua ngày. Nơi đầu đường xó chợ, người ta thường thấy một đứa bé gầy còm, ốm yếu, đen đúa, lem luốc, ngồi co ro thật tội nghiệp.
Một hôm, Ngài Xá Lợi Phất trên đường đi du hoá, thấy một chú bé khoảng chín mười tuổi, thân hình gầy còm, đen đúa, nằm co quắp bên vệ đường. Động lòng thương xót, Ngài đến bên hỏi rõ nguyên nhân mới biết được hoàn cảnh bi đát của chú bé. Sau đó, Ngài mới nói một bài pháp về nhân quả nghiệp báo cho chú bé nghe, rồi Ngài bảo rằng: “Con có muốn xuất gia theo thầy không?”
Đứa bé than: “Con là đứa ăn mày, một thân, một mình không nơi nương tựa, không cha mẹ, không bà con, họ hàng thân tộc, con thuộc giai cấp hạ tiện, làm sao con có thể xuất gia theo Ngài.”
Thời bấy giờ, việc xuất gia chỉ dành riêng cho giai cấp tôn quý. Nghe vậy, Ngài Xá Lợi Phất mới giải thích, trong giáo pháp của Phật Đà không có phân biệt giai cấp cao quý hay hạ tiện. Ai muốn sống đời giải thoát thì phát tâm gia nhập vào Tăng đoàn. Chú bé vui mừng chấp nhận và được Ngài Xá Lợi Phất đưa về Tăng đoàn. Nơi đây, chú bé lớn khôn, trưởng thành trong môi trường phạm hạnh đầy trí tuệ. Do tu hành tinh chuyên, chú được thọ giới đầy đủ, không bao lâu sau đã trở thành một vị tỳ kheo nổi tiếng phạm hạnh, và chứng quả A La Hán.
Câu chuyện trên đã cho chúng ta một bài học quý báu về tích luỹ nghiệp trong quá khứ và hiện tại, không phải đơn giản như nhiều người hiểu lầm chết là hết, mà chúng ta sẽ phải trả một giá rất đắt nếu đã gây tạo nghiệp xấu ác.
Trên đời này, không có việc gì là không có nguyên nhân sâu xa của nó. Trong nhiều kiếp quá khứ, tiền thân của chú bé là người có tâm tật đố, ghen tỵ, đã ngăn cản nhiều cư sĩ cúng dường một vị Bích Chi Phật, và còn vu oan, xúi bảo người khác không cúng dường. Do tiền kiếp đã gieo những nhân xấu như vậy, nên đời này sinh ra phải làm một chú bé ăn xin nghèo hèn, thiếu thốn đầu đường xó chợ, không chỉ có thân mình chịu quả báo khổ đau mà người sinh ra cậu cũng cùng chung nghiệp ấy.
Khi biết được lý nhân quả nghiệp báo luôn đeo đuổi ta như bóng với hình, mình mới thấy thật khốn khổ khi quả xấu đến. Nếu người phật tử không thông suốt lý nghiệp báo, sẽ dễ đi đến sai lầm, mà sai một li là đi xa ngàn dặm, không biết sẽ về đâu.
Vì vậy, chúng tôi mong quý phật tử là người hiểu Phật pháp, biết tu hành theo lời Phật dạy. Nếu chúng ta không có khả năng bố thí, cúng dường, chia sẻ, giúp đỡ người nghèo khó, thì khi thấy người khác bố thí, cúng dường, làm điều phước thiện, chúng ta phải phát tâm tuỳ hỷ, vui theo việc làm tốt đó, thì mình cũng có phước đức không khác gì người bỏ tiền ra giúp đỡ.
Đức Phật thường dạy: “Người phát tâm bố thí, giúp đỡ, sẻ chia, và người tuỳ hỷ với việc bố thí ấy, có phước báu ngang bằng nhau”. Vì sao? Vì người bố thí cúng dường thì được phước báo hiện tại và mai sau không nghèo hèn, thiếu thốn, khó khăn; còn ta thấy người khác bố thí, cúng dường, mà phát tâm tuỳ hỷ, vui theo việc làm ấy, sẽ không bị quả báo tật đố, ganh ghét. Người có tâm tật đố, ganh ghét dễ dẫn đến hận thù, làm những việc xấu ác; còn người xúi bảo người khác làm việc xấu ác, thì quả báo lại càng nặng nề hơn.
Như trường hợp của dân làng đánh cá trong câu chuyện trên, cái đói khổ là do cộng nghiệp xấu. Khi đứa bé mới đầu thai vào bà mẹ, nghiệp nhân đã chiêu cảm những quả xấu, nên cả làng bị thiếu thốn, đói khát, dẫn đến việc bà mẹ bị đuổi ra khỏi làng, người con phải thọ quả ăn mày từ trong bụng mẹ mãi đến khi chín, mười tuổi. Thật là khủng khiếp! Đó cũng chỉ vì tuỳ hỷ hay xúi bảo với việc làm xấu ác mà ra.
Do đó, khi học về giáo lý nghiệp báo, chúng ta nên cẩn thận với mọi hành vi từ thân-miệng-ý, mình chỉ tán thán và tuỳ hỷ khi thấy người khác làm việc phước thiện mà thôi; còn khi thấy ai làm việc bất thiện, mình nên tìm cách khuyên can, cả hai việc ấy đều mang lại lợi ích trong hiện tại và mai sau.
Đối với khẩu nghiệp, chúng ta phải hết sức cẩn trọng trong lời nói. Ta nên nói những lời có lợi cho mình và cho người, còn những lời nói mình cảm thấy có hại cho bản thân hay cho người thì phải dè dặt. Muốn được như vậy, chúng ta phải biết cách tu hành từ ý nghĩ khi chưa phát sinh ra lời nói. Ta nghĩ và nói theo lời Phật dạy, biết tận dụng, tranh thủ thời gian quán chiếu, suy xét, cho đến khi nào mình cảm thấy lời nói không có hại cho ai thì mình mới nói.
Ai tu được như vậy, sẽ từng bước chuyển hóa được nghiệp xấu ác huân tập từ nhiều đời, nhiều kiếp, không còn nghi ngờ gì nữa, nhà Phật gọi đó là niềm tin bất thoái chuyển. Người có niềm tin như thế sẽ càng ngày càng sống tốt hơn, nhờ trí tuệ khai phát, do đó luôn sống vì tha nhân nhiều hơn.
Trong Kinh Kim Cang, đức Phật đã nói: “Phàm cái gì có tướng đều hư (giả) vọng”. Hư vọng có nghĩa là không phải không có, mà là giả có (không thật có).
Thân của chúng ta có phải thật là ta hay không? Nếu thân này là thật, tại sao ai cũng sinh-già-bệnh-chết? Cái gì thật thì trước sau như một, không biến đổi, trước như thế nào thì sau như thế đó, dù trải qua thời gian vô cùng tận cũng không thay đổi. Còn thân người luôn bị già-bệnh-chết chi phối, thì làm sao nó là thật được. Vậy mà rất nhiều người trong chúng ta lầm chấp thân này là thật, là ta, là của ta.
Từ chỗ chấp thân này là thật, nên mới sinh ra chuyện vợ chồng luôn tranh cãi, bất hòa với nhau, dẫn đến ly dị, ly hôn, do không biết nhường nhịn lẫn nhau. Những điều bất hạnh ấy đến với mình cũng chỉ vì mình không hiểu biết, thiếu tu hành mà thôi.
Do nghiệp xấu gieo tạo từ trước, nên khi sinh ra trong đời này, cậu bé phải chịu quả báo làm một đứa trẻ lang thang, ăn mày đầu đường xó chợ, bữa đói bữa no, chín mười năm trời. Tuy đã vào Tăng đoàn, được xuất gia tu hành, nhưng vẫn phải chịu nghiệp quả của sự thiếu thốn. Trong lúc đi khất thực hàng ngày, cứ hễ đến lượt Ngài thì hết thức ăn, hoặc người cúng dường muốn dân vật thực cho Ngài thì lại thấy trong bình bát của ngài đầy ấp thức ăn, nên lại thôi, không sớt bát nữa.
Bởi do ác nghiệp gieo tạo trong quá khứ, nay khiến Ngài phải trả quả báo như vậy. Cho nên, trong suốt thời gian tu hành trong Tăng đoàn, cùng đi khất thực với quý thầy, ấy thế mà Ngài chưa bao giờ có một lần no đủ, mặc dù ngài đã chứng quả A La Hán.
Thương tình vị đệ tử của mình suốt cuộc đời không một bữa ăn no, Ngài Xá Lợi Phất khất thực được một bát cơm thịnh soạn, bèn để Ngài dùng trước lúc nhập diệt; nhưng khi Ngài vừa dùng xong, tất cả thức ăn đều bị ói ra hết. Quý vị đã thấy rõ sức mạnh của nghiệp ác chiêu cảm thế nào chưa, ngay đến cả bữa ăn cuối cùng trong đời Ngài cũng không thể thọ nhận, dú đã chứng A La Hán quả.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng, hễ gieo tạo nghiệp gì thì phải thọ lãnh nghiệp quả nấy, không sai một li nào, không trốn tránh vào đâu được, cho dù đó là nghiệp riêng hay nghiệp chung.
Vì vậy, người phật tử chân chính phải hết sức cẩn trọng giữ gìn các hành vi của thân-miệng-ý cho chu đáo, khi đã lỡ gây tạo nghiệp bất thiện rồi thì trăm kiếp, ngàn đời, quả báo ấy cũng không hề mai một, mà chỉ nằm yên chờ đến lúc hội đủ nhân duyên thì sẽ trổ ra. Lúc ấy, ta không kêu cứu ai được, mà cũng không ai có thể cứu ta được. Chỉ có người hiểu rõ đạo lý nhân quả, nghiệp báo, biết tu hành, thì mới chấp nhận mà không phàn nàn, không than van hay oán trách một ai.
Còn đối với những bậc tu hành đã vượt qua được vòng luân hồi sinh tử, khi những quả xấu trổ ra, các ngài không hề sợ sệt, không hề oán than; có khi các ngài còn khởi tâm vui vẻ vì được trả quả trong kiếp này. Những vị cao Tăng, những bậc tu hành chân chính luôn giữ tâm an trú nơi tính biết sáng suốt của mình, không còn dấy niệm về buồn, thương, giận, ghét, nên các ngài lúc nào cũng an nhiên, tự tại.
Do đó, người phật tử chân chính phải nên thường xuyên quán chiếu, soi sáng lại chính mình, đừng chờ đến lúc quả xấu trổ ra, rồi mới ngồi đó mà than thân, trách phận. Bồ tát nhờ ý thức được quả khổ đau, nên đã kịp thời ngăn ngừa từ nhân, còn chúng ta chờ kết quả xấu đến thì làm sao trở tay cho kịp.
Bởi thế, phàm phu khi trả quả thì than thân, trách phận, oán trời, trách đất, đổ thừa đủ thứ, rồi sinh ra hận thù, tìm cách trả đũa; do vậy, nhân quả vay trả, trả vay không có ngày cùng. Muốn dừng được nhân bất thiện, chúng ta phải thường xuyên nghiền ngẫm lời Phật dạy, để biết được nhân nào dẫn đến sa đoạ, khổ đau, nhân nào dẫn đến an vui, hạnh phúc, nhân nào được giác ngộ, giải thoát, để mình lựa chọn mà tu theo tâm nguyện của mình; đừng để nước tới chân mới nhảy thì làm sao kịp, hay chờ khát nước rồi mới đào giếng thì đã quá muộn màng.
Người học Phật phải biết phòng ngừa quả xấu từ nhân. Muốn được như vậy, trước nhất ta phải tin sâu Tam Bảo, cố gắng thực hành lời Phật dạy. Phật nay đã nhập diệt hơn 26 thế kỷ, nhưng giáo pháp của Ngài vẫn còn đang lưu truyền nhờ chư tăng, ni. Nếu không có chư tăng, ni hoằng truyền rộng rãi thì làm sao ta biết được điều hay dở, tốt xấu, đúng sai trong cuộc đời, để mình tu sửa, để khỏi chìm đắm, trôi lăn trong vòng sinh tử, luân hồi.
Tin sâu Tam Bảo là tin sâu vào lời dạy chân chính của Phật, không phải thần tượng vào vị thầy nào, vì thần tượng thì dễ bị sụp đổ. Điều đó dễ dẫn ta đến cống cao ngã mạn, chỉ thấy có thầy mình là tốt, là đúng, là hay, còn các vị khác đều sai, đều xấu. Đây là tai hoạ từ bệnh thần tượng cá nhân gây nên, bởi chư vị tăng, ni đang tu hành cũng là người bình thường, nên không sao tránh khỏi những khuyết điểm.
Biết được như vậy, chúng ta dễ dàng cảm thông cho những sai sót của quý tăng, ni, hay các bạn đồng tu với nhau. Khi xét thấy chư tăng, ni nào đầy đủ đức hạnh thì chúng ta cố gắng học theo; còn chư vị tăng, ni nào chưa trọn vẹn, nhiều khiếm khuyết, thì chúng ta cũng nên lấy đó làm bài học, để không vấp phải lỗi lầm. Đó là điều người phật tử cần phải nên biết, để tránh việc khen mình, chê người, chỉ gây đau khổ cho nhau mà thôi.
Đối với người phật tử, việc tích luỹ nghiệp rất là quan trọng, bởi chúng ta sinh ra trong đời là đã mang theo nghiệp tốt xấu lẫn lộn của nhiều đời trước. Bên cạnh tích luỹ nghiệp của quá khứ, việc tái sinh còn do lực tác động của cận tử nghiệp, cũng rất quan trọng. Cận tử nghiệp là nghiệp được tạo tác lúc sắp chết. Tích luỹ nghiệp và cận tử nghiệp có liên quan mật thiết với nhau, nó kết thành yếu tố quyết định đưa thần thức người chết tái sinh về cõi lành hay cõi dữ.
Tích lũy nghiệp thiện thuần thục mới có thể không bị đọa vào chỗ xấu ác
Thời Phật còn tại thế, vua Ma Ha Nam- con của Cam Lộ Phạm Vương, là em nhà chú bác với đức Phật, ông tu tại gia, giữ năm giới, tu thập thiện, thọ Bát quan trai. Một hôm, ông đến gặp đức Phật và bạch rằng: “Bạch Thế Tôn, con giữ gìn năm giới, tu thập thiện, thọ Bát quan trai thường xuyên như vậy, nếu chẳng may con bị chết bất đắc kỳ tử, sau khi chết, con sẽ tái sinh được chỗ tốt đẹp hay không?”
Đức Phật không trả lời mà hỏi lại ông: “Như có một cây cổ thụ thân và cành nghiêng hẳn về một bên, vậy khi cưa gốc, cây đó sẽ ngã về bên nào?”
Vua Ma Ha Nam trả lời: “Dạ thưa Thế Tôn, cây sẽ ngã về phía đang nghiêng”.
“Cũng vậy, bình thường nhà vua hay làm điều lành, giữ giới liên tục, không gián đoạn, khi gặp tai nạn bất thường, tuy có hơi bị khủng hoảng đôi chút, nhưng do nghiệp thiện tích luỹ quá nhiều, nên sẽ được sinh về cảnh giới an lành, nhà vua khỏi phải lo lắng, sợ hãi mà cứ yên tâm”.
Người tu hành chân chính phải biết tích luỹ nghiệp lành khi còn trẻ khoẻ, chứ không phải chờ đến tuổi già, sức yếu, rồi mới làm lành, lánh dữ, và tu hành, thì e rằng không còn kịp nữa. Tránh dữ, làm lành là phương pháp sống của người phật tử, hễ khi có cơ hội và nhân duyên thì mình phát tâm làm ngay dù việc lớn hay nhỏ.
Cho nên, tu là phải chịu khó hành trì bền bỉ từ khi còn trẻ, ta chỉ làm một việc là kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ cho đến lời nói và hành động cho được thuần nhất, không làm tổn hại cho mình và người.
Cận tử nghiệp đối vối việc tái sinh trong đời sau rất quan trọng. Một người trong đời đã làm nhiều việc thiện lành, tốt đẹp, nhưng đến lúc sắp lâm chung lại khởi lên tâm niệm xấu ác, hay oán giận ai, thì chưa chắc được sinh về cõi an lành. Ngược lại, ai trong đời lỡ tạo một vài nghiệp ác, đến lúc sắp lâm chung mà biết khởi tâm niệm lành mạnh mẽ, người ấy có thể chuyển được nghiệp xấu và sinh về cảnh giới an lành. Bởi nghiệp không cố định, nên ta có thể chuyển hoá và thay đổi chúng.
Qua câu chuyện trên, đức Phật đã chỉ ra cho ta một bài học quý báu về tích luỹ nghiệp, chúng ta phải thường xuyên huân tập việc tốt bền bỉ, lâu dài. Lúc nào, ta cũng ý thức việc làm ác sẽ gây quả xấu cho mình trong hiện tại và mai sau, nên không dám lơ là, buông lung, mà luôn cố gắng tinh cần chuyển hóa chúng khi còn trong trứng nước, tu hành như vậy ta mới có thể làm chủ tâm mình trước lúc lâm chung.
Cận tử nghiệp có thể chuyển hoá được các nghiệp xấu ác ta đã gây tạo ra từ trước. Nếu trước đây, chúng ta đã từng làm những việc xấu ác, đến lúc gần chết mình biết hồi đầu chuyển hướng, khởi tâm niệm lành mạnh mẽ, nhờ tâm niệm đó, mình có thể được sinh về chỗ an vui, hạnh phúc.
Ngoài việc tích luỹ nghiệp lành, người phật tử còn phải biết tu hạnh buông xả. Nghĩa là không chấp trước vào việc làm thiện lành của mình. Người chấp trước vào việc tốt mà mình đã làm thì dễ sinh tâm ngã mạn, lúc gặp duyên xấu không làm chủ được bản thân, hay bị người khác xúi giục làm điều xấu ác không cưỡng lại được, biết xấu mà vẫn làm, biết mà cố phạm, vì thói xấu đã được thuần thục.
Nghiệp theo ta như bóng với hình
Trong đời, ta thấy có người hay làm những việc xấu ác, bất thiện, bất nhân, bất nghĩa, mà họ vẫn khoẻ mạnh, giàu có, không gặp hoạn nạn, là do nhiều đời, nhiều kiếp, họ đã gieo trồng quá nhiều nghiệp lành, tích luỹ nghiệp tốt của họ trong quá khứ còn nhiều, nên những nghiệp xấu ác họ đã gây trong đời hiện tại chưa đủ sức chi phối.
Có người thắc mắc cho rằng: “Tại sao có người suốt đời toàn làm điều ác, mà họ vẫn sống đầy đủ, giàu có, chẳng thiếu một thứ gì. Vậy luật nhân quả nghiệp báo có chuẩn xác và công bằng hay không?” Trong kinh Phật dạy rất rõ ràng: “Nếu làm thiện sẽ được quả bảo vui, làm ác thì bị quả báo khổ”.
Bởi tích luỹ nghiệp và cận tử nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đối với người sắp lâm chung. Người làm ác mà vẫn sống phây phây là do tích luỹ nghiệp thiện lành của họ quá nhiều. Phật thường nói về nhân-duyên-quả, có nhân thì phải có duyên, đủ duyên thì chiêu cảm quả báo. Nhưng nhân quả có thể thay đổi được, nếu không chúng ta tu cũng tốn công, vô ích thôi.
Tu là mục đích chuyển khổ thành vui, chuyển xấu thành tốt, chuyển mê thành ngộ. Như khi xưa ta chưa biết tu nên hay hút thuốc, uống rượu; nay nhờ biết tu, nên mình không uống rượu, hút thuốc nữa, vậy không phải đã chuyển là gì. Bỏ thuốc, bỏ rượu là do ta bỏ, chứ đâu có ông thần linh thượng đế nào giúp cho mình làm được điều này.
Chúng ta nuốn được phước báo tốt, sống đời hiền thiện, đạo đức, thì phải cố gắng tu trong mọi hoàn cảnh, đừng chờ đến chùa rồi mới tu. Tu như vậy là không thực tế. Một tháng chúng ta đến chùa được mấy ngày? Không lẽ không đến chùa là không tu được hay sao? Quý phật tử hãy nên suy nghĩ chín chắn chỗ này. Tu chính là nền tảng vững chắc để xây dựng hạnh phúc gia đình và xã hội. Một giờ tu là một giờ hạnh phúc, một ngày tu là một ngày an lạc, giác ngộ, giải thoát ngay tại đây và bây giờ.
Muốn được trọn vẹn đường tu, chúng ta phải thường xuyên sám hối, quyết tâm chừa bỏ lỗi lầm, phát nguyện đời đời kiếp kiếp đi theo con đường Phật đạo. Chúng ta phải phát nguyện mạnh mẽ và ý thức rằng, làm ác sẽ chịu quả báo khổ đau trong hiện tại và mai sau, nhờ vậy mình mới đủ sức vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Phát nguyện để làm mới lại chính mình và tin sâu Tam Bảo, giúp chúng ta có đủ niềm tin trên bước đường tu học. Mỗi khi gặp điều bất hạnh, ta biết đó là nghiệp xấu quá khứ còn rơi rớt lại, nên không thối chí, nản lòng, mà còn cố gắng nhiều hơn để vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền,
Trong nhà có báu, thôi tìm kiếm,
Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền.
Chúng ta hãy nên bắt chước ông vua Thiền sư Phật hoàng Trần Nhân Tông, xem ngai vàng như dép rách, chẳng màng đến vinh hoa phú quý, một lòng nhất tâm tu hành, buông xả quyền cao chức trọng, để sống đời trong sạch, giải thoát.