Pythagore và thuyết luân hồi
Quan niệm tái sinh, luân hồi (saṃsāra) của sinh mạng không phải chỉ riêng có trong tư tưởng Phệ-đà, trong Phật giáo hay Ấn Độ giáo, và như xưa nay chúng ta thường nghĩ là chỉ có các quốc gia ảnh hưởng nền minh triết phương Đông mới bị chi phối bởi quan niệm này.
Mục lục
- 10 - Thư mời viết bài hội thảo khoa học: Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền với Hội Phật học Nam Việt
- 11 - Thư mời viết bài tham luận cho Vesak 2019
- 12 - Thư mời viết bài hội thảo khoa học: Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám và Hội An Nam Phật học
- 13 - Ảnh hưởng của phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam(1920) đến việc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam(1981)
- 14 - Tỷ-kheo phải biết xông khói
- 15 - Nhân minh học là khoa học của mọi luận lý
- 16 - Thư mời HỘI THẢO KHOA HỌC "Phật giáo Cổ truyền Việt Nam và sự đóng góp cho Đạo Pháp và Dân Tộc"
- 17 - Đạo Phật và trí thức
- 18 - Sách nói : Kinh Trường Bộ
- 19 - Ra mắt nhân sự Viện nghiên cứu Phật học VN NK 2007- 2012
- 20 - Cơ cấu nhân sự Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 21 - Ra mắt nhân sự Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 22 - Viện Nghiên cứu Phật học VN tổng kết năm 2014
- 23 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổ chức lễ tổng kết Phật sự 2015 và phương hướng hoạt động 2016
- 24 - Buổi họp Ban thường trực Hội đồng Quản trị Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 25 - BTS Phật giáo TP.HCM làm lễ Tự tứ mãn hạ
- 26 - Viện Nghiên Cứu Phật Học VN họp chỉnh sửa bổ sung cho quy chế nhiệm kỳ 8 (2017-2022)
- 27 - Viện Nghiên cứu Phật học VN thăm viếng chư tôn đức dịch giả
- 28 - Sẽ nỗ lực hoàn thành Bộ Đại tạng kinh Việt Nam
- 29 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam họp phiên đầu tiên của nhiệm kỳ mới
- 30 - Gần 450 nhân sự tham gia Viện Nghiên cứu Phật học VN
- 31 - Khởi động việc ấn hành Đại tạng kinh Phật giáo VN
- 32 - HỌC CÁCH ĐỐI DIỆN VỚI SỢ HÃI
- 33 - Con người phụ thuộc vào tự nhiên và có sự tác động lẫn nhau
- 34 - Nguồn gốc Phật giáo
- 35 - Phiên âm Đại Tạng Kinh
- 36 - Góp chút công sức cho Đại tạng kinh Việt Nam
- 37 - Góp phần đề nghị một đề cương biên dịch cho Đại tạng kinh Việt Nam
- 38 - Học và tu
- 39 - Viện Nghiên cứu Phật học VN có Ban Vận động tài chánh
- 40 - Hoạt động của Ban Phiên dịch Phật học Anh - Việt
- 41 - Lễ tổng kết của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, nhiệm kỳ 2012-2017
- 42 - Tôn giáo và Đạo đức
- 43 - Khai phát Trí tuệ nhìn từ tư tưởng Kinh Duy Ma Cật
- 44 - Thủ tướng chủ trì họp về công tác tổ chức Đại lễ Vesak 2019
- 45 - Chuẩn bị cho Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 46 - Phỏng vấn Hoà thượng Chủ tịch ICDV về Vesak 2019
- 47 - TP.HCM:Họp Ủy ban Quốc gia Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 48 - VIDEO: Việt Nam đăng cai lần thứ 3 Đại lễ Vesak LHQ
- 49 - Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội triển khai công tác Phật sự năm 2019
- 50 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (1)
- 51 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (2)
- 52 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (3)
- 53 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (4)
- 54 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (5)
- 55 - Thân người khó được, Phật pháp khó nghe
- 56 - Nếp sống đạo đức, lành mạnh của người Phật tử
- 57 - Suy nghĩ đôi điều về sự cầu siêu và cúng thí thực
- 58 - Chữ Tâm trong đạo Phật
- 59 - Phật giáo mô tả về Vũ trụ như thế nào? (1)
- 60 - Phật giáo mô tả về Vũ trụ như thế nào? (2)
- 61 - Để tâm Vô trụ khi làm từ thiện
- 62 - Tính chất giáo dục của Giới luật Phật giáo
- 63 - Ý thức về Tội lỗi
- 64 - Điều quan yếu của đời sống
- 65 - Hiểu rõ hơn về Nghiệp
- 66 - Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Cảnh (1937-2018)
- 67 - Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Sam (1929 - 2018)
- 68 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Đức Chơn(1932-2017)
- 69 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Chơn Kim (1930 - 2017)
- 70 - Sơ Lược Tiểu Sử Hòa thượng Thích Trí Tịnh
- 71 - Tiểu Sử Đại Lão Hòa thượng Thích Đổng Quán(1925-2009)
- 72 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Bửu Chung (1881-1947)
- 73 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Huệ Quang (1888 - 1956)
- 74 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Khánh Anh
- 75 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Hoàng Từ
- 76 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Nhật Liên
- 77 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Thiện Hoa (1918 - 1973) Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN
- 78 - Sơ Lược Tiểu Sử Hòa thượng Thích Quảng Tâm
- 79 - Tiểu Sử cố Đại Lão Hòa thượng Thích Bảo An
- 80 - Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ
- 81 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Bửu Phước (1880-1948)
- 82 - Tiểu sử trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu (1918 - 2012)
- 83 - Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Từ Nhơn (1926 - 2013)
- 84 - Tìm hiểu giáo nghĩa Tịnh độ Chân tông Nhật Bản
- 85 - Không đắm nhiễm thì sống vui
- 86 - Cõi âm có hay không? Nhận thức của Phật giáo đối với vấn đề này
- 87 - Kinh Tương Ưng Bộ - HT Thích Minh Châu dịch Việt
- 88 - Kinh Trường Bộ 1 - HT Thích Minh Châu dịch Việt
- 89 - Nhân sự Ban in ấn và phát hành nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 90 - Nhân sự Ban Tài chính nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 91 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 92 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Phật học Hán truyền nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 93 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Văn học Phật giáo nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 94 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Thiền học Nam Truyền nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 95 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Thiền học Bắc Truyền nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 96 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Nữ giới Phật giáo nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 97 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 98 - Nhân sự Trung tâm Phiên dịch Anh - Việt Phật học nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 99 - Nhân sự Phân viện Nghiên cứu Phật giáo Nam Tông nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 100 - Nhân sự Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 101 - Quan điểm về Theravāda và Mahāyāna của Phật Hoàng Trần Nhân Tông
- 102 - Tìm hiểu ý nghĩa câu kệ Sùng Nghiêm của Trần Nhân Tông
- 103 - Mục tiêu của đạo Phật là gì?
- 104 - Khởi nguyên Thiền Học Việt Nam
- 105 - Phật hoàng Trần Nhân Tông và những giá trị siêu việt
- 106 - Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng (P.1)
- 107 - Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng (P.2)
- 108 - Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng (P.3)
- 109 - Lợi ích của pháp tu lạy Phật
- 110 - Tại sao nhiều người mê cõi Tây phương Cực lạc?
- 111 - Đức Phật có phủ nhận việc cầu nguyện?
- 112 - Bốn pháp mang đến an lạc đời sau cho người cư sĩ
- 113 - Ba căn lành chẳng thể cùng tận
- 114 - Cầu nguyện có được kết quả như ý không?
- 115 - Vì người tạo ác nghiệp, chính mình phải chịu tội
- 116 - Phật dạy 20 điều khó
- 117 - Biết sống vô thường (P.1)
- 118 - Biết sống vô thường (P.2)
- 119 - Biết sống vô thường (P.3)
- 120 - Biết sống vô thường (Phần cuối)
- 121 - 7 thứ gia tài bậc Thánh
- 122 - Cầu nguyện là chánh tín hay mê tín?
- 123 - Để việc phóng sinh thể hiện lòng từ bi đúng nghĩa
- 124 - Tự vấn về Pháp môn Tịnh độ
- 125 - Ý nghĩa tụng kinh Dược Sư và niệm Phật Dược Sư
- 126 - Pháp trợ niệm của Đức Phật
- 127 - Làm sao vui với chuyện thị phi?
- 128 - Đại lễ Vesak 2019: Sự kiện đối ngoại nhân dân
- 129 - Người gánh phân nghèo hèn và bài học Tâm không phân biệt của Đức Phật
- 130 - Bản ý của Tịnh độ tông
- 131 - Ba điều căn bản của người tu Phật
- 132 - Năm pháp khiến Chánh pháp không diệt ở thời Mạt pháp
- 133 - Về niên đại Hán dịch của kinh Na Tiên Tỳ-kheo
- 134 - Vua Trần Nhân Tông và tinh thần "Bụt ở trong nhà"
- 135 - Bản chất thời gian với ý nghĩa giải thoát của đạo Phật
- 136 - Đạo Phật bi quan hay lạc quan?
- 137 - Cực Lạc và Luân Hồi: Bất Nhị trong Tịnh Độ Tông
- 138 - Nguyễn Du và Phân Kinh Thạch Đài
- 139 - Cận cảnh ngôi chùa đăng cai đại lễ Vesak 2019 và khối Thiên thạch Mặt Trăng 600.000 USD
- 140 - Họp Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 141 - Pali - Việt đối chiếu
- 142 - Từ điển Bách khoa Phật giáo Việt Nam
- 143 - Từ điển Pháp số Tam Tạng
- 144 - Từ điển Hư Từ
- 145 - Từ điển Hán Phạn - Buddhist Chinese-Sanskrit
- 146 - Phật Quang Đại Từ điển
- 147 - Từ điển Thiền tông Hán - Việt
- 148 - Hạnh phúc là gì, mà ai cũng phải đi tìm?
- 149 - Tiếp tục đôn đốc, chuẩn bị cho Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 150 - Nghiên cứu về trải nghiệm cận tử thông qua thiền định
- 151 - Tiêu giải nghiệp chướng theo lời Phật dạy
- 152 - 7 điều suy ngẫm từ Đạt Lai Lạt Ma có thể thay đổi cuộc đời của bạn
- 153 - Ba bài học sâu sắc từ Phật giáo để có được sự an lạc giữa cuộc sống bộn bề
- 154 - Thiền sư Khương Tăng Hội: Sơ tổ của Thiền tông Việt Nam
- 155 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổng kết 6 tháng cuối năm 2018 và triển khai hoạt động năm 2019
- 156 - Hội nghị trù bị lần 2 Đại lễ Vesak 2019 tại Việt Nam
- 157 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đảnh lễ Hoà thượng Thiền sư Thích Thanh Từ
- 158 - Đại lễ Phật đản Vesak 2019 có gì đặc biệt?
- 159 - Bốn pháp thu phục lòng người
- 160 - Tổng hợp những lời dạy của Đức Phật hay và ý nghĩa
- 161 - Vô ngã vị tha - cách nhìn Phật giáo về công bằng xã hội
- 162 - Vô minh trong Phật giáo có ý nghĩa gì?
- 163 - 7 việc Phật dạy không đáng “hy sinh” trong đời
- 164 - Nuôi dưỡng lòng từ bi trong cuộc sống với 7 bước luyện tập
- 165 - Những câu nói truyền cảm hứng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 166 - Làm thế nào để có một đời sống đạo đức?
- 167 - Lắng nghe 108 lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma
- 168 - Khiêm tốn là phẩm đức của bậc đại trí
- 169 - Thiền sư Vạn Hạnh và tinh thần Phật giáo đồng hành cùng dân tộc
- 170 - Thiền sư Thường Chiếu – Người có công giao nhập 3 dòng Thiền phái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XIII
- 171 - Tại sao Thiền sư Thường Chiếu dám 'cãi' về Tổ Bồ Đề Đạt Ma?
- 172 - Phật dạy làm người quan trọng nhất là phải có lương thiện
- 173 - Đức Phật là người hạnh phúc!
- 174 - Ý nghĩa cầu nguyện trong đạo Phật
- 175 - Pháp lạc trong tu học
- 176 - Mê và giác
- 177 - Quán vô thường để chứng đạt vô ngã
- 178 - Lời Phật dạy: Sống vị tha là một trong những phép tắc đạo đức cao quý nhất!
- 179 - Lời Phật dạy dành cho những người hay phiền muộn
- 180 - Vì sao hạnh phúc không thể tách rời lòng vị tha?
- 181 - Video giới thiệu Đại lễ Phật Đản Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 182 - Lời Phật dạy về cách tạo dựng phúc đức cho sinh mệnh con người
- 183 - 3 bí ẩn diệu kỳ của thiền định
- 184 - Phật dạy cách buông bỏ mọi phiền não
- 185 - Những nét chính về cuộc đời Hòa thượng Tuyên Hóa
- 186 - Ban Văn hóa T.Ư họp bàn việc phục vụ Vesak 2019
- 187 - 6 chân lí của hạnh phúc từ lời Phật dạy
- 188 - 17 lời khuyên sâu sắc về cuộc sống từ Thiền sư Kodo Sawaki
- 189 - 50 chân lý bất biến của cuộc đời
- 190 - Phật dạy: Hết củi thì lửa tắt
- 191 - Hai thứ tự do
- 192 - Câu chuyện Đức Phật và 3 người đàn ông cùng bài học xương máu
- 193 - Trầm cảm dưới góc nhìn Phật giáo, ngồi Thiền chữa trầm cảm theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 194 - Nghĩ về Đại lễ Liên Hiệp Quốc Vesak 2019 từ những tách trà nóng kỷ niệm
- 195 - An ninh trật tự phục vụ Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019 đã sẵn sàng!
- 196 - Giáo hội Phật giáo Việt Nam triển khai công tác tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 197 - Giới đức nặng hơn đất, mạn cao hơn trời, hồi tưởng nhanh hơn gió và tư tưởng nhiều hơn cỏ!
- 198 - Quán chiếu tâm và đoạn ác tâm để làm sinh thiện tâm
- 199 - Sự ra đi bí ẩn của Tổ sư Hệ phái Khất sĩ Việt Nam Minh Đăng Quang 65 năm trước
- 200 - Cách tiếp cận của con người đối với hoà bình thế giới
- 201 - Thiền sư Khương Tăng Hội sinh ra trên đất Việt, truyền Phật giáo từ Giao Chỉ tới Đông Ngô
- 202 - Chuyển hóa sân hận bằng 5 phương cách theo lời đức Phật dạy!
- 203 - Tuyên Quang triển khai kế hoạch Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019
- 204 - Thiền sư Pháp Đảnh (Hàn Quốc): Đệ Nhất Trì luật-Đạo hạnh sáng ngời
- 205 - Tìm hiểu Thiền Quán tử thi - phép tu mạnh mẽ để nhận thức vô ngã tại Thái Lan
- 206 - Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019: Tôn vinh giá trị nhân văn, hòa bình
- 207 - Lời giảng vi diệu của Đức Phật về thuật Lãnh đạo
- 208 - Ý nghĩa đời sống
- 209 - Lịch trình dự kiến của Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019
- 210 - Lời Phật dạy sâu sắc về lòng hiếu thảo đối với cha mẹ
- 211 - Vì sao vua Lý Thánh Tông đã từng nổi giận đốt chùa rồi lại sám hối xây chùa
- 212 - Phép Hỏa quang tam muội của hai Thiền sư Việt
- 213 - Trút bỏ phiền ưu theo lời Phật dạy
- 214 - Công tác Tình nguyện viên phục vụ Đại lễ Vesak Liên hiệp quốc 2019
- 215 - Vì sao người Phật tử nên ăn chay?
- 216 - Tham lam là liều thuốc độc!
- 217 - Sống hạnh phúc theo lời Phật dạy
- 218 - Cơ sở 2 bệnh viện Bạch Mai ở Hà Nam sẽ phục vụ tốt cho Vesak 2019
- 219 - Công an Hà Nam triển khai kế hoạch giữ trật tự ATGT phục vụ Đại lễ Vesak 2019
- 220 - Nghiệp và Giải nghiệp theo Chánh pháp
- 221 - Các ban chuyên môn họp đúc kết công tác chuẩn bị cho Đại lễ Vesak 2019
- 222 - Phương thuốc của lòng vị tha
- 223 - Lời Phật dạy về đạo nghĩa trong gia đình
- 224 - HT.Từ Phong trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam
- 225 - Lời Phật dạy về cách quý trọng cuộc sống
- 226 - Pythagore và thuyết luân hồi
- 227 - Thường và vô thường
- 228 - Công tác chuẩn bị Đại lễ Vesak 2019 đang trong giai đoạn nước rút
- 229 - Báo hiếu cha mẹ theo lời Phật dạy
- 230 - Thanh lọc tâm để an lạc
- 231 - 1.500 đại biểu quốc tế dự Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 232 - Chí tâm vì người
- 233 - Soi lại mình
- 234 - Những cái vui trong đạo Phật
- 235 - Lời Phật dạy về 3 điều để trở thành người lương thiện
- 236 - Từ bi là cội nguồn và trái tim của Phật giáo
- 237 - Tha thứ để hóa giải oán thù
- 238 - Khai mạc Hội thảo khoa học về Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
- 239 - Niệm Phật và trị liệu
- 240 - Phật giáo TP.HCM họp đoàn tham dự Vesak LHQ 2019
- 241 - Tu chứng
- 242 - Tránh tạo nhân đau khổ theo lời Phật dạy
- 243 - Chân Không Diệu Hữu trong kinh Hoa Nghiêm
- 244 - Công bố chương trình chi tiết Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 245 - Đại lễ Phật đản Vesak 2019 sẽ bàn chuyện dùng công nghệ số có chánh niệm
- 246 - Bản năng - Hiểu thế nào cho đúng?
- 247 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những bài học sâu sắc giúp cuộc sống hạnh phúc
- 248 - Mở rộng con tim
- 249 - Sự khác biệt giữa Tưởng tri, Thức tri và Trí tuệ
- 250 - Nếp sống trí tuệ của người con Phật
- 251 - Suy nghĩ về khái niệm giải thoát sinh tử trong Đạo Phật
- 252 - Hội thảo khoa học về cư sĩ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền
- 253 - Bộ Công an kiểm tra công tác an ninh cho Vesak 2019
- 254 - Giá trị bình yên
- 255 - Dây trói bền chắc nhất
- 256 - Thông điệp Đại lễ Phật đản Vesak 2019 của Đức Pháp chủ GHPGVN Thích Phổ Tuệ
- 257 - Chánh niệm trước ác ma
- 258 - Oai lực của tâm từ
- 259 - Kiểm soát dục vọng qua góc nhìn Phật học và khoa học
- 260 - Phật giáo thế kỷ XXI
Đối diện với sự đau khổ đã được định chế hóa Phỏng vấn Giáo sư David R. Loy
- 261 - Phật dạy tâm bi tình yêu thương chân thật
- 262 - Hân hoan hướng về Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 263 - Điều phục ý căn
- 264 - Tránh xa 6 hành động làm hao tổn phúc đức
- 265 - Khoa học, nghệ thuật và tính tâm linh
- 266 - Lời Phật dạy sâu sắc về cách làm giàu chân chính
- 267 - Đốn ngộ và Tiệm ngộ trong Thiền tông
- 268 - Mười lợi ích khi tin Phật chân thật
- 269 - Lời Phật dạy về tác hại của việc uống rượu
- 270 - Các cấp độ nhận thức
- 271 - Diễn văn Đại lễ Phật đản PL.2563 – DL.2019 của Hòa thượng Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN
- 272 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam họp Quý 1 năm 2019
- 273 - Tu để được an lạc thân tâm trong kiếp này
- 274 - Thắng tri
- 275 - Tháng 7, bắt đầu ấn hành bộ Đại tạng kinh Việt Nam
- 276 - Tìm hiểu sự hình thành xe hoa, kiệu hoa Phật đản
- 277 - Ý nghĩa, nguồn gốc ngày đại lễ Vesak Liên hiệp quốc
- 278 - Họp báo trước thềm Đại lễ Vesak Liên hợp quốc 2019 tại Việt Nam
- 279 - Lời Phật dạy về tham, sân, si của con người
- 280 - Đại học Phật giáo Hungary thăm Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 281 - Thông tin chi tiết về công tác chuẩn bị Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 282 - Một cách tiếp cận chánh niệm và sự lãnh đạo có chánh niệm
- 283 - An approach to mindfulness and mindful leadership
- 284 - Hòa thượng Chủ tịch ICDV đến Việt Nam
- 285 - Lời Đức Phật dạy: Đi nhiều, khó tu!
- 286 - Có hiếu với mẹ cha tức là kính Phật
- 287 - Khai mạc Hội thảo Quốc tế chào mừng Đại lễ Phật đản LHQ Vesak 2019 tại chùa Tam Chúc
- 288 - Trọng thể khai mạc Đại lễ Phật đản - Vesak LHQ PL.2563 tại Việt Nam
- 289 - Hội thảo quốc tế chủ đề Vesak 2019 bằng Anh ngữ
- 290 - Toàn văn Tuyên bố Hà Nam 2019
- 291 - Bế mạc Đại lễ Vesak LHQ: Tuyên bố Hà Nam 2019
- 292 - Kinh hạt muối là gì?
- 293 - Vượt qua mười hai xứ
- 294 - Phương pháp tiếp cận Phật giáo về vấn đề phát triển kinh tế bền vững
- 295 - Vô ngã, tính Không và Khoa học Lượng tử
- 296 - Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi con người biết được lộ trình sinh tử của mình
- 297 - Long Thọ và Khoa học Lượng tử
- 298 - Thấy mọi thứ đang vận động để lặng yên
- 299 - Hạnh của đất
- 300 - Những nền tảng về quan điểm sinh thái của Thiền tông Phật giáo
- 301 - 12 câu hỏi về cuộc đời đáng suy ngẫm
- 302 - 9 cách thay đổi số phận khi áp dụng các giáo lý nhà Phật
- 303 - Suy tư về sự sống
- 304 - Thiền sư Norman cùng những lời khuyên về lời Phật dạy khi gặp khó khăn
- 305 - Lợi ích của sự biết đủ
- 306 - Mười lý do nên tu tập từ bi quán
- 307 - Tâm Minh Lê Đình Thám, biểu mẫu của người con Phật Việt Nam
- 308 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những lời khuyên nuôi dưỡng hạnh phúc
- 309 - Hiểu và Ngộ
- 310 - Trói buộc và giải thoát
- 311 - The Buddhist Analysis of the Significance of Meditation (bhāvanā) in Promoting Ethical Education in the Modern Society
- 312 - Tâm sinh tướng
- 313 - Văn hoá dung hợp cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo toàn cầu hiện nay
- 314 - Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo bằng
Chánh niệm giúp ngày ngày an vui
- 315 - Buddhist Approach to Mindful Leadership
through An Auspicious Day
- 316 - Thiền và tâm lý trị liệu
- 317 - Sống trong thực tại, bây giờ, và ở đây!
- 318 - Người học thiền thấu qua cửa sắc không
- 319 - Nước mắt và tâm từ bi của một vị thiền sư
- 320 - Như huyễn tam-muội
- 321 - Trí, bi và lạc trong kinh Lăng-già
- 322 - Đức Phật dạy buông bỏ những thứ tưởng là mãi mãi
- 323 - Hốt bụi ném người trên gió chỉ làm bẩn mình
- 324 - Lời Phật dạy sâu sắc về việc hãy sống trọn vẹn hạnh phúc trong hiện tại
- 325 - Không nên hủy nhục người tu hành chân chính
- 326 - Phản tưởng khổ là lạc
- 327 - Sức mạnh của niềm tin
- 328 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh và quan điểm về Phật giáo dấn thân
- 329 - Phương pháp hành thiền cơ bản
- 330 - Đức Đạt Lai Lạt Ma và những câu nói sâu sắc
- 331 - Phương pháp tiếp cận giáo pháp
- 332 - Chánh kiến đi hàng đầu
- 333 - Tu hành tánh Không trong Bồ-tát hạnh
- 334 - Nóng giận là lửa vô minh, lửa vô minh thì thiêu hủy rừng công đức
- 335 - Từ bi quán
- 336 - Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo bằng Chánh niệm giúp ngày ngày an vui
- 337 - Buddhist Approach to Mindful Leadership through An Auspicious Day
- 338 - Tại sao Đức Phật thường nói đến sự khổ đau?
- 339 - Khái niệm về cái chết theo quan điểm Phật giáo
- 340 - Tánh Không là giải thoát
- 341 - Vì sao đức Phật dạy ta nên kết bạn với người hiền trí
- 342 - Phật giáo và trí thức
- 343 - Bố thí, cúng dường cũng có năm bảy đường
- 344 - Chuyển hoá stress
- 345 - Thánh tẩy trần
- 346 - Nên chú tâm vào nội lạc
- 347 - Tam nghiệp và tịnh hóa nghiệp
- 348 - Pháp giới và Pháp giới Thể tánh
- 349 - Thể tánh của Tâm
- 350 - 7 tâm cần phát khởi khi thực hành sám hối
- 351 - Năm phương pháp đưa đến định tâm
- 352 - Phật giáo và đạo đức sinh học hiện đại
- 353 - Sự yên lặng của Đức Phật
- 354 - Lời Phật dạy sâu sắc về tác hại của lời nói dối
- 355 - Tản mạn chuyện sắc không
- 356 - Sự buông xuống sau cùng
- 357 - Bốn cấp độ thiền định
- 358 - Quán tâm trên tâm
- 359 - Thấy khổ để buông khổ
- 360 - Ánh sáng Như Lai
- 361 - Khách trọ trần gian
- 362 - Không bệnh giữa ốm đau
- 363 - Thiền chỉ và thiền quán
- 364 - Tất cả pháp đều là Phật pháp
- 365 - Tại sao có các tướng
- 366 - Tôi phải làm gì để cuộc sống hạnh phúc hơn?
- 367 - Chuyển hoá về Tịnh độ
- 368 - Hãy mỉm cười khi khó khăn đến gõ cửa
- 369 - Chánh kiến
- 370 - Câu chuyện người Kalama
- 371 - Pháp thoại từ khúc gỗ trôi sông
- 372 - Thường Bất Khinh
- 373 - Con đường đi đến Phật đạo
- 374 - Ăn chay
- 375 - Pháp giúp Bồ-tát tại gia thành tựu Bồ-đề vô thượng
- 376 - Muốn chết tốt, phải sống tốt
- 377 - Trí, bi và lạc trong kinh Lăng-già
- 378 - Khởi phát nguồn tâm
- 379 - Lấy thiện tâm giúp người, phúc báo muôn vạn kiếp
- 380 - Vô niệm
- 381 - Nghĩa "Như" của tất cả các pháp
- 382 - Bước thăng bằng trên đường không thăng bằng
- 383 - Quán huyễn trong Phật giáo Việt Nam
- 384 - Tính nhất quán xuyên suốt từ kinh Nguyên thuỷ đến kinh Đại thừa
- 385 - Khẩu nghiệp gây tổn thương người khác là một trong những nghiệp nặng nề nhất
- 386 - Căn bản triết lý và kinh điển của Thiền tông
- 387 - Nhờ lực của Bát-nhã
- 388 - Để Chánh pháp an trú lâu dài
- 389 - Khéo tu thì nổi
- 390 - Vụng tu thì chìm
- 391 - Quan điểm của Phật giáo về chiến tranh và xung đột
- 392 - Lành thay nếu được là học trò của Đức Phật
- 393 - Vai trò của Phật giáo đối với Tổng hạnh phúc quốc gia
- 394 - Mặc áo giáp đi xuyên qua lịch sử
- 395 - Thiền tông Việt Nam
- 396 - Viễn ly sanh y
- 397 - Đức Phật dạy pháp nhập Niết bàn ngay tại đây và bây giờ
- 398 - Phật đi khất thực
- 399 - Chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tự nhiên
- 400 - Vận dụng thiền quán vào xã hội hiện đại để góp phần xây dựng thế giới hòa bình an lạc
- 401 - Uẩn và Không
- 402 - Các Pháp duyên sinh, không thật
- 403 - Bát chánh đạo chính là Trung đạo
- 404 - Chánh niệm trong cuộc sống
- 405 - Thấy như huyễn tức là thấy Như Lai
- 406 - Quan hệ thực tiễn về nhân quả đạo Hiếu
- 407 - Thuyết lượng tử và sự di chuyển của tâm thức
- 408 - Như huyễn trong kinh Kim Cương
- 409 - Karl Marx & Thiền đi bộ
- 410 - Chữ Hiếu: Vẫn đi tìm một định nghĩa
- 411 - Thực tại là Chân như
- 412 - Uống nước nhớ nguồn
- 413 - Bốn ơn lớn mà người Phật tử cần nhớ
- 414 - Ngũ căn & ngũ lực
- 415 - Đi vào đời ác năm trược
- 416 - Những bình diện của tâm linh
- 417 - Tám ngọn gió
- 418 - Tinh thần hiếu đạo trong Kinh Địa Tạng
- 419 - Tri túc: Biết đủ, cách sống mang lại hạnh phúc
- 420 - Như Lai là người chỉ đường
- 421 - Quy trình của lòng nhân
- 422 - Tương ưng và an trụ
- 423 - HT.Thích Thanh Từ nói về "Vu lan mùa Báo hiếu"
- 424 - Nhà khoa học Albert Einstein và đạo Phật
- 425 - Phật tử và thiền
- 426 - Bất kỳ bạn ở đâu, giác ngộ ở đó
- 427 - Những kiến thức cơ bản về Luân hồi trong đạo Phật
- 428 - Chuyển hoá cuộc đời
- 429 - Tâm sân hận tạo nên bi kịch cuộc đời
- 430 - Nghiệp và nghiệp quả
- 431 - Gần đèn thì sáng
- 432 - Thấy biết như thật
- 433 - Tỉnh giác về cái chết
- 434 - Lời Phật dạy sâu sắc về việc hóa giải hận thù
- 435 - Nền tảng của niệm Phật
- 436 - Ba thân và mũ giáp
- 437 - Khổ đau lớn nhất đời người là gì?
- 438 - Quán tưởng
- 439 - 4 nỗi khổ mà mỗi người nên biết
- 440 - Nghiên cứu kinh Kim Cang phần Vô ngã
- 441 - Đức Phật dạy về 3 loại hạnh phúc
- 442 - Bố thí - Việc làm nhỏ mang giá trị lớn lao
- 443 - Lời Phật dạy sâu sắc về "Bạn"
- 444 - Bát Khổ: Chân lý thứ nhất bao quát Tứ Diệu Đế
- 445 - Nghệ thuật sống: Thiền Minh sát tuệ
- 446 - Lời Phật dạy về "Lòng tin"
- 447 - Nên đặt lòng tin như thế nào?
- 448 - Có pháp đốt cháy và pháp không đốt cháy
- 449 - “Sinh tử tức Niết Bàn” và ý nghĩa
- 450 - Vô ngã trong tư tưởng Phật giáo
- 451 - Sát sinh và hậu quả dưới góc nhìn của Phật giáo
- 452 - Niềm tin và trí tuệ
- 453 - Kho tàng của Phật giáo
- 454 - Giá trị bốn chân lý vĩ đại của Phật giáo: Tứ Diệu Đế
- 455 - Giữ tâm ý trong sạch
- 456 - Nhị đế là gì?
- 457 - Người trí biết nhớ ơn & báo ơn
- 458 - "Đau" phải chăng đã là "khổ"
- 459 - Trách nhiệm phổ quát
- 460 - Trầm tư ý nghĩa thực tiễn về Tịnh độ
- 461 - Tuỳ niệm pháp môn tu tập nhập pháp lưu
- 462 - Ngũ tâm hương
- 463 - Tất cả chúng sinh là mẹ
- 464 - Thiểu dục tri túc: Một cách sống hạnh phúc
- 465 - Chân lý Phật giáo là gì?
- 466 - Lời dạy về tình yêu đích thực của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 467 - Sự thật về con người
- 468 - Sự hấp dẫn của đạo Phật
- 469 - Gợi mở lối đi giác ngộ
- 470 - Tu hành như khúc gỗ trôi sông
- 471 - Tản mạn về chữ Hiếu hôm nay
- 472 - Ý nghĩa đời người
- 473 - Tâm này là Phật
- 474 - Không lấy cái tôi làm trung tâm
- 475 - 20 điều nhất định phải tu tập trong đời người
- 476 - Kẻ lọc vàng
- 477 - Tại sao lại có sanh tử
- 478 - Đại tạng kinh Việt Nam: Lại thắp lên niềm hy vọng
- 479 - HT.Thích Giác Toàn, Phó Chủ tịch HĐTS, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học VN: “Thực hiện Đại tạng kinh là sứ mệnh xuyên suốt của Giáo hội”
- 480 - Người xuyên tạc Như Lai
- 481 - Mở rộng thiện duyên
- 482 - Nhận diện đau khổ và diệt trừ đau khổ
- 483 - Chết là lẽ đương nhiên
- 484 - TP.HCM: Văn phòng Viện Nghiên cứu Phật học VN và Học viện Phật giáo viếng tang NT. Ngoạt Liên
- 485 - Bí quyết hạnh phúc theo lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 486 - Nghiệp chi phối đời sống nhân sinh
- 487 - 5 việc làm tạo quả báo xấu, ảnh hưởng lớn tới cả cuộc đời bạn
- 488 - Đức Phật giảng như thế nào về cái chết và quy luật sinh lão bệnh tử trên đời?
- 489 - Khéo tích công bồi đức
- 490 - Thư mời viết bài tham dự hội thảo khoa học : "Di sản Việt Nam - Ấn Độ: Mối quan hệ xuyên văn hoá"
- 491 - Hướng nội hướng ngoại
- 492 - Trở lại vạch xuất phát không phải là thảm họa, cùng lắm là chơi lại một lần nữa
- 493 - Vấn đề tâm linh dưới góc nhìn Phật giáo
- 494 - Phòng hộ sáu căn
- 495 - Suy ngẫm lời Phật dạy
- 496 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh với pháp thoại "Lắng nghe sâu vì hòa bình"
- 497 - Lời Phật dạy về nhân quả báo ứng
- 498 - Có sinh ắt có diệt
- 499 - Tu hành cần vững tâm
- 500 - Lời Phật dạy để gìn giữ giới hạnh
- 501 - Thư mời viết bài hội thảo khoa học "Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh: Lịch sử hình thành và phát triển"
- 502 - Kế hoạch hội thảo khoa học "Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh: Lịch sử hình thành và phát triển"
- 503 - Ý nghĩa Pháp Duyên khởi
- 504 - Buông xả hơn thua nhưng không im lặng
- 505 - Giáo lý Năm uẩn
- 506 - Công đức của việc trì kinh
- 507 - Như lý duyên khởi
- 508 - Sám hối như thế nào là đúng?
- 509 - Một câu chuyện về sức mạnh của lòng từ
- 510 - Thiền sư Huyền Quang và những đóng góp cho Phật giáo đời Trần
- 511 - Hiểu đúng "chữ khổ" trong Phật giáo
- 512 - 10 lời Phật dạy sâu sắc giúp thay đổi cuộc đời bạn
- 513 - Tuổi trẻ với hạnh nhẫn nhục
- 514 - Sống một mình
- 515 - Thoát ly khổ ách
- 516 - Phật giáo nhập thế và các vấn đề xã hội đương đại ở Việt Nam
- 517 - Niệm Phật
- 518 - Sự liên hệ giữa thế giới này và Tịnh độ Tây phương
- 519 - Phật dạy 20 câu thiền ngữ giúp cuộc sống an nhiên, vui vẻ
- 520 - Nghiệp ai nấy mang, duyên ai nấy nhận
- 521 - Nhận rõ chính mình
- 522 - Đạo Phật tiếp cận với đời sống
- 523 - Lời Phật dạy về quán vô thường
- 524 - Không tạo tác
- 525 - Phép tu im lặng
- 526 - Đức Phật và con người hiện đại
- 527 - Lời Phật dạy: Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với ta
- 528 - Viện Nghiên cứu Phật học VN tổng kết Phật sự 2019
- 529 - Đừng để "Phật giáo u buồn" như thế!
- 530 - Đời sống từ bi
- 531 - Làm thế nào để nuôi dưỡng từ bi tâm?
- 532 - Khó thay nghe Chánh pháp
- 533 - Phóng sinh chân chính
- 534 - Con người chân thật nơi chính mình
- 535 - Chân không diệu hữu tự tại thong dong
- 536 - Chân lý qua nghĩa duyên sinh mùa xuân
- 537 - Tỉnh thức giữa quần mê
- 538 - Xuân, vui với Hoà thượng Bố Đại
- 539 - Hoa tàn hoa nở chỉ là Xuân
- 540 - Xuân Di-lặc
- 541 - Mùa xuân trong đạo Phật
- 542 - Đón một mùa xuân an lạc
- 543 - Thư chúc tết xuân Canh Tý của Đức Pháp chủ GHPGVN
- 544 - Ý nghĩa cành mai ngày tết
- 545 - Đầu Xuân, bàn về lới khấn "Nam mô A Di Đà Phật"
- 546 - Phật pháp xây dựng thế gian
- 547 - Ngạ quỷ nghe kinh
- 548 - Lời Phật dạy: Cách để có được hành vi tốt
- 549 - Nobel Kinh tế 2019 từ góc nhìn Phật giáo
- 550 - Triết lý Cân bằng tự nhiên đoạt giải Nobel Y sinh 2019
- 551 - Tổng quan về Giới học
- 552 - Tổng quan về Định học
- 553 - Tổng quan về Tuệ học
- 554 - Đi xem hoa hậu
- 555 - "Không" có ý nghĩa gì?
- 556 - Minh và vô minh
- 557 - Tinh tấn trong đạo Phật khác với nỗ lực ở thế gian
- 558 - Thuyết pháp không vì tiếng tăm
- 559 - Khoa học và Phật giáo
- 560 - Tánh Không, Quang minh và Năng lực
- 561 - Phật giáo - tôn giáo của duy lý
- 562 - Thiền định Phật giáo và khoa sinh học
- 563 - Mục đích của đời người
- 564 - Tình yêu thương là liều thuốc tiên chữa bệnh
- 565 - Tinh tấn quá mức cũng không hẳn là tốt
- 566 - Ý nghĩa lợi tha
- 567 - Hương hoa cúng dường chư Phật
- 568 - Tính chất của nghiệp
- 569 - Chánh niệm để hoá giải căng thẳng
- 570 - Lòng lặng thì nghiệp yên
- 571 - Hạnh tu bố thí
- 572 - Lễ hội vào thành
- 573 - Tâm của người ngồi thiền
- 574 - Một đoạn nhân duyên
- 575 - Nhị đế và Tứ tất-đàn
- 576 - Các pháp là Chân Như vốn toàn thiện
- 577 - Hiểu về Sinh Tử - Cơ hội giải thoát ngàn vàng
- 578 - Nơi lưu trữ mộc bản Đại tạng kinh Hàn Quốc
- 579 - Hàn Quốc: Có 81.352 bản Cao Ly Bát vạn Đại Tạng kinh
- 580 - Đại Chánh Tạng - Lời giới thiệu
- 581 - Pháp đơn giản
- 582 - Đức Phật - Bậc thức tỉnh cho nhân thế
- 583 - Tứ đại trọng ân trong Phật giáo
- 584 - Mục đích cuối cùng của sự tu học là chấm dứt tái sinh
- 585 - Hạnh phúc là buông xả?
- 586 - Tư tưởng Trung đạo qua Bát bất
- 587 - Niệm Phật chớ sợ cười, đừng chờ hẹn
- 588 - Soi gương Chánh pháp
- 589 - Công đức chiêm bái Phật tích
- 590 - Không có kẻ chiến bại
- 591 - Thực hành pháp và tuỳ pháp
- 592 - Bảy pháp làm cho Chánh pháp tăng trưởng
- 593 - Im lặng như pháp
- 594 - Người ngu nghĩ là ngọt
- 595 - Như Lai thọ lượng
- 596 - Bảy pháp cung kính làm cho Chánh pháp tăng trưởng
- 597 - Ra mắt Ban Biên tập và ấn hành Thánh điển Phật giáo VN
- 598 - Tam pháp ấn và sự diệt khổ
- 599 - Thư thỉnh mời viết bài kỷ yếu Trưởng lão Hoà thượng Thích Phước Sơn
- 600 - Giáo pháp như chiếc bè qua sông
- 601 - Nimitta trong Thanh tịnh đạo
- 602 - Một tâm thanh tịnh
- 603 - Giá trị phổ quát của thiền & thuyết nghiệp của đạo Phật
- 604 - Phật huệ, Phật đức, Phật lực hằng hữu miên viễn
- 605 - Pháp thân của chư Phật
- 606 - Phàm tăng & Thánh tăng
- 607 - Phật dạy: Nhìn nước để thấy người
- 608 - Bốn hạng người đáng thân cận
- 609 - Độ nhất thiết khổ ách
- 610 - Một số lời dạy của Đức Phật về Hiếu Hạnh
- 611 - Báo hiếu trong hành vi tôn giáo của Phật tử
- 612 - Vì sao Đức Phật dạy ân đức cha mẹ thật khó báo đền?
- 613 - Trầm tư về đạo hiếu
- 614 - Chữ Hiếu cũng cần vun đắp
- 615 - Phật dạy: Hãy cúng dường cha mẹ
- 616 - Định lượng chữ Hiếu
- 617 - TP. HCM: Họp Ban Biên tập và Ấn hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 618 - Kính thuận với cha mẹ
- 619 - Đạo nghĩa thầy trò
- 620 - Sống theo lời Phật: Mạng sống vô thường
- 621 - Ý dẫn đầu các pháp
- 622 - Phật dạy pháp "trừ sầu lo"
- 623 - Lời Phật dạy cách đối mặt với kẻ tiểu nhân
- 624 - Lược sử Trúc Lâm Tam tổ
- 625 - Niềm tin vào Tam bảo và lòng tự tín của người Phật tử
- 626 - Biết lắng nghe pháp
- 627 - Mối tương quan giữa Đức Phật và thiên nhiên
- 628 - Hưởng thụ lạc bị Như Lai chê trách
- 629 - Pháp sanh diệt
- 630 - Sắp ra mắt ấn bản kinh Trường bộ & Trung bộ
- 631 - Biển cả và Phật pháp
- 632 - Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ra mắt ấn phẩm Kinh Trường Bộ và Kinh Trung Bộ
- 633 - Phóng sự: Ý Nghĩa Tam Tạng Thánh Điển Phật Giáo Việt Nam
- 634 - An Viên Focus: Hành trình Tam tạng Thánh Điển Phật giáo
- 635 - Viện Nghiên cứu Phật Học Việt Nam
- 636 - Cách đối trị sợ hãi theo quan điểm Phật giáo
- 637 - Kế hoạch phối hợp tổ chức hội thảo khoa học toàn quốc về " Phát huy vai trò Tăng, Ni Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc"
- 638 - Thư mời viết bài tham luận
- 639 - Lời Phật dạy: Hãy nhớ tinh tấn, chớ có lười biếng
- 640 - Khuyến khích tu pháp sai mắc tội vô lượng
- 641 - Suy tư & nhận biết
- 642 - Hà Nội: Nữ giới Phật giáo với lĩnh vực báo chí
- 643 - Biết pháp, biết nghĩa, biết thời
- 644 - Biết tiết độ, biết mình, biết hội chúng
- 645 - Thoát khỏi sợ hãi
- 646 - Biết sự hơn kém của người
- 647 - Tu tập cũng như giữ thành
- 648 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổng kết Phật sự 2020
- 649 - Mê tín hay không mê tín?
- 650 - Xuân trong cửa Thiền
- 651 - Thư chúc Tết xuân Tân Sửu của Đức Pháp chủ
- 652 - Hạnh phúc của người tu
- 653 - Đắm say trong dục vui ít khổ nhiều
- 654 - Ngón tay chỉ mặt trăng: Thông điệp kinh Lăng-già
- 655 - Cầu nguyện qua cái nhìn Duyên khởi
- 656 - Nói như hoa như mật
- 657 - Thư mời viết bài tham luận cho hội thảo quốc gia "Giáo hội Phật giáo Việt nam: sự hình thành và phát triển"
- 658 - Thông báo về việc phát hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 659 - Thông bạch v/v Ấn hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 660 - Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Lời chứng minh
- 661 - Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Lời giới thiệu
- 662 - Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Lời nói đầu
- 663 - Giáo hoá bình đẳng
- 664 - Đôi điều về học giới luật Phật giáo
- 665 - Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Phước Sơn (1938-2020)
- 666 - Thông bạch v/v Cúng dường Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 667 - DẪN LUẬN KINH TRƯỜNG BỘ
- 668 - DẪN LUẬN KINH TRUNG BỘ
- 669 - DẪN LUẬN KINH TƯƠNG ƯNG BỘ
- 670 - DẪN LUẬN KINH TĂNG CHI BỘ
- 671 - Ích lợi của việc sám hối
- 672 - Trị liệu bệnh khổ
- 673 - "Công ơn cha mẹ" theo lời Phật dạy
- 674 - Thiểu dục và tri túc trong kinh Di giáo
- 675 - Thành tựu chánh kiến
- 676 - Phật dạy:Nên nói cái gì và im lặng thế nào?
- 677 - Đã gieo trồng thiện căn dẫu chết cũng không sợ
- 678 - Nếu có 5 đức tính này thì người tu ở đâu cũng được thương kính
- 679 - Hướng đến thống nhất tổng mục lục cho Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 680 - Khai mạc hội thảo online "Giáo hội Phật giáo Việt Nam: 40 năm hội nhập và phát triển cùng đất nước"
- 681 - Ban Thường trực Ban Biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam họp với Trung tâm Pāli học
- 682 - Thiền Đại thừa và Tối thượng thừa
- 683 - Giữ giới như giữ rễ cho cây
- 684 - Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh khánh tuế Hòa thượng Thích Giác Toàn
- 685 - Để tâm giải thoát được thuần thục
- 686 - Viện Nghiên cứu Phật học VN chúc Tết Trưởng lão Hòa thượng Quyền Pháp chủ GHPGVN
- 687 - Viện Nghiên cứu Phật học VN sẽ tổ chức nhiều hội thảo trong năm 2022
- 688 - Sự mầu nhiệm của lòng biết ơn
- 689 - Viện Nghiên cứu Phật học VN tổ chức tổng kết nhiệm kỳ vào cuối tháng 10-2022
- 690 - Hòa thượng Thích Giác Toàn: "Thực hiện Đại tạng kinh là sứ mệnh xuyên suốt của Giáo hội”
- 691 - Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Phật học VN dâng hương tưởng niệm Hòa thượng Thích Minh Cảnh
Triết học phương Tây, mà chủ yếu là nhà toán học, triết gia Pythagore đã mang sắc thái này khá đậm nét. Ông không chỉ có quan niệm rạch ròi về sự tái sinh, luân hồi (metempsychosis) của con người, mà còn chỉ rõ đó là do linh hồn (soul) đi đầu thai, và ông còn tin rằng có sự chuyển dịch linh thức từ con người sang con vật sau khi mạng chung. Ông biết được số phận của linh hồn sau khi chết. Ông quan niệm linh hồn là thường hằng, bất tử. Và từ niềm tin tưởng đó, ông duy trì cuộc sống bằng cách ăn chay (vegetarian), chỉ ăn rau đậu, cây trái chứ không ăn thịt động vật.
Ông quan niệm trong sinh mạng động vật có sự tiến hóa từ linh thức con người, nên thân xác con vật khi chết, biến thành thức ăn cho con người thì cũng mang theo trong đó linh hồn của con người. Vậy nên, sự tin tưởng vào luân hồi (saṃsāra) của linh thức con người đã có ảnh hưởng rất nhiều đến nhân sinh quan và vũ trụ quan, dẫn đến những thành quả phát minh khoa học và toán học, âm nhạc, triết học của Pythagore. Trước ông, quan niệm này đã có trong triết gia như Thales (624-546 BC).
Với quan niệm Vũ trụ luận khoa học, Thales loại trừ các yếu tố thần thoại khi giải thích các hiện tượng thiên nhiên, và ảnh hưởng đến Platon, với quan niệm hình thành nên Cộng hòa quốc, một quốc độ được hình thành hoàn toàn do ý chí của con người chứ không có sự can thiệp nào của thần linh, như trong tác phẩm Republic của ông. Bài viết sẽ bắt đầu từ con người Pythagore, các lĩnh vực ông đã th ành tựu. Quan niệm linh thức luân hồi, việc ăn chay, những ảnh hưởng đến vũ trụ luận và nhân sinh quan của ông.
Chúng tôi sẽ trình bày theo tinh thần đối chiếu giữa các hệ tư tưởng chủ đạo đương thời là Phệ-đà và Phật giáo, cùng dẫn chứng thêm một số triết gia Tây phương chịu ảnh hưởng quan niệm của ông. Bài viết hoàn toàn không có ý định phê phán hay đánh giá về các truyền thống tín ngưỡng hay các trường phái triết học có liên quan đến phạm trù này.
Pythagore và thời đại
Pythagore sinh tại đảo Samos, vùng bờ biển phía Tây Hy Lạp, cha là thương gia, mẹ là người ở đảo Samos. Thời trẻ tuổi, ông đến thành phố Crotone phía Nam Ý để học và để trốn tránh Chính phủ chuyên chế Polycrates. Ở đây ông được học với bậc thầy toán học kỳ tài đương thời là Thales. Lúc đó, Pythagore mới 16 tuổi. Thales rất thán phục về trí thông minh và tài năng của Pythagore. Ông đã khuyên Pythagore đến Memphis ở Ai Cập học tập môn tế lễ với các thầy tư tế nổi tiếng tài giỏi tại đó. Có lẽ ông đã học một số nguyên lý hình học, sau này là cảm hứng để ông phát minh ra định lý toán học nổi tiếng mang tên ông ở tại nơi đây.
Sau đó ông tiếp tục lên đường để tìm hiểu những gì tinh túy của những quốc gia được xem là có sự phát triển về tư tưởng, triết học, số học... đương thời. Pythagore đã đến Ấn Độ, Babilon, Ai Cập và đã ở lại những nơi đó nhiều năm. Ông trở nên uyên bác trong hầu hết các lĩnh vực quan trọng: số học, hình học, thiên văn, địa lý, y học, triết học khi tiếp nhận thêm những kiến thức thu thập được từ các quốc gia này.
Đến lúc 50 tuổi, Pythagore mới trở về Tổ quốc của mình. Ông thành lập một ngôi trường ở miền Nam Italy, nhận hàng trăm môn sinh, kể cả phụ nữ, với thời gian học 5 năm gồm 4 bộ môn: Hình học, Toán học, Thiên văn, Âm nhạc. Chỉ những học sinh giỏi vào cuối năm 3 mới được chính ông trực tiếp dạy. Các học trò của Pythagore tự gọi mình là mathematikoi (nhà toán học). Họ sống trong trường nội trú, không được sở hữu cá nhân và ăn chay theo thầy mình. Các sinh viên khác sống tại các vùng gần đó cũng được cho phép tham gia vào lớp học của Pythagore, được gọi là akousmatikoi (người nghe). Các sinh viên đó được ăn thịt và có đồ sở hữu riêng.
Theo Iamblichus, các học trò của Pythagore sống một cuộc sống theo quy định sẵn với các môn học tôn giáo, các bữa ăn tập thể, tập thể dục, đọc và học triết học. Âm nhạc được coi là nhân tố tổ chức chủ chốt của cuộc sống này: các môn đồ cùng nhau hát các bài ca tụng Apollo; họ dùng đàn lyre để chữa bệnh cho tâm hồn và thể xác, ngâm thơ trước và sau khi ngủ dậy để tăng cường trí nhớ. Các mathematikoi được học chi tiết và tỉ mỉ hơn về triết học và toán học. Còn nhóm ngoài, akousmatikoi, là những người chỉ được nghe giảng về các tiêu đề rút gọn trong các lời dạy của Pythagore, và không được giảng giải rõ thêm. Mathematikoi chú trọng nhiều tới việc hiểu tường tận vấn đề hơn akousmatikoi, thậm chí tới mức không cần thiết như ở một số quy định và các nghi lễ tâm linh.
Đối với mathematikoi, trở thành môn đồ của Pythagore là vấn đề về bản chất thiên phú và sự thấu hiểu bên trong. Akousmatikoi chỉ được nghe các bài giảng do Pythagore đọc từ sau một bức màn. Họ không được phép nhìn thấy Pythagore và không được dạy những bí mật bên trong của mọi sinh hoạt. Thay vào đó, họ được truyền dạy các quy luật đối xử và đạo đức dưới hình thức khó hiểu, những câu nói ngắn gọn ẩn giấu ý nghĩa bên trong.
Akousmatikoi coi trọng mathematikoi và xem đó là các môn đồ Pythagore chính thống. Nhưng mathematikoi lại không coi akousmatikoi như vậy. Sau khi lính của Cylon, một môn đồ bất mãn giết Pythagore và một số mathematikoi, hai nhóm này hoàn toàn chia rẽ với nhau. Vợ Pythagore là Theano cùng hai cô con gái lãnh đạo nhóm mathematikoi. Vợ ông, Theano, con gái của Brontinus, là một nhà toán học. Bà được cho là người đã viết các tác phẩm về toán học, vật lý, y học và tâm lý học trẻ em, dù không còn tác phẩm nào tồn tại đến ngày nay. Tác phẩm quan trọng nhất của bà được cho là về các nguyên lý trung dung. Ở thời phụ nữ thường bị coi là vật sở hữu và chỉ đóng vai trò người nội trợ, nhưng Pythagore đã cho phép phụ nữ có những hoạt động ngang quyền với nam giới trong tổ chức của ông.
Pythagore nhà Toán học a^2 + b^2 = c^2
Mọi người đều biết đến Pythagore là nhà toán học với định lý mang tên ông:
- Tổng diện tích của 2 hình vuông có cạnh góc vuông kề nhau (a và b) thì bằng diện tích của hình vuông có cạnh là cạnh huyền của tam giác đó (c).
- Tổng bình phương của hai cạnh góc vuông thì bằng bình phương cạnh huyền của tam giác vuông đó.
- Công thức: a^2 + b^2 = c^2
Lịch sử của Định lý Pythagore mang tên ông còn nhiều điều đáng tìm hiểu thêm. Việc Pythagore đích thân chứng minh định lý này hay không vẫn còn chưa chắc chắn, vì trong thời cổ đại, khám phá của học trò cũng thường được gán với danh xưng của thầy. Văn bản đầu tiên đề cập tới định lý này có kèm tên Pythagore xuất hiện năm thế kỷ sau khi ông qua đời.
Một điều đáng lưu ý là việc truyền dạy kiến thức cho học trò của ông, Mathematikoi cũng như Akousmatikoi, là chỉ bằng khẩu truyền, tức chỉ qua lời nói, chứ không được ghi chép bằng các ký hiệu hay ngôn ngữ. Điều này có tương quan với sự truyền thừa tư tưởng và triết học Phệ-đà ở Ấn Độ, và cả đối với giáo lý đạo Phật.
Được biết, tư tưởng Phệ-đà được quan niệm là sự khải thị (śruti) của Đấng tối cao (Brahman). Đây là thẩm quyền tối cao. Sự truyền thừa đến các tầng lớp tối ưu được cho là hàng Bà-la-môn chỉ qua sự khải thị bằng âm thanh (śabda), tức là lời nói. Đến thời kỳ đạo Phật cũng vậy. Đức Phật giảng dạy giáo pháp giác ngộ cho hàng đệ tử cũng bằng lời nói. Người nghe ứng dụng lời dạy đó vào việc hành trì, tu tập chuyển hóa, đi đến giác ngộ. Lớp đệ tử đó được gọi là Thanh văn (Śrāvaka). Mãi cho đến thời kỳ vua A Dục (Aśoka; 273 - 232 tr.TL), triều đại Khổng Tước (孔雀, S: Maurya), mới có chữ viết.
Quan niệm về luân hồi
Pythagore tin tưởng có sự luân hồi, điều được cho biết qua nhiều thư tịch còn lại đến bây giờ. Thuật ngữ metempsychosis được ghi nhận rất sớm trong tín ngưỡng Orphic, mà người sáng lập là Orpheus, xuất hiện đầu tiên ở vùng Thrace, được cho là thừa hưởng một nền văn minh bán khai, thuộc vùng biên giới Tây bắc Hy Lạp… Sau này du nhập vào vốn từ vựng Anh ngữ là transmigration hay reincarnation. Thuật ngữ này đã có sự hạn chế của nó ngay trong nội hàm vì nó gắn liền với linh hồn (soul), là đối tượng tái sinh hay luân hồi. Orpheus trong thần thoại Hy Lạp là nhà thơ và nhạc sĩ. Vợ của ông mất sớm. Quá thương tiếc vợ, Orpheus đã xuống âm phủ để tìm kiếm và gặp được bà, nhưng không thể đưa bà trở về trần gian được.
Orpheus cho rằng linh hồn (soul) và thể xác (body) được kết hợp với nhau bởi mối liên hệ không bình thường. Linh hồn (soul) thì thiêng liêng (divine), bất tử (immortal ) và khao khát tự do (aspires to freedom); trong khi thể xác (body) bị ràng buộc như tù nhân. Cái chết giải quyết mối liên hệ này, nhưng chỉ kìm hãm lại linh hồn tự do sau một thời gian ngắn, vì vòng quay sinh tử không có gì lay chuyển được. Thế nên linh hồn tiếp tục cuộc hành trình của nó, qua lại giữa sự hiện hữu riêng biệt không bị kiềm chế và sự tái sinh mới, đi quanh vòng tròn rộng lớn của quy luật tất yếu, như là sự kết hợp của nhiều thân thể con người và súc vật.1
Như thế, thuật ngữ metempsychosis chỉ được dùng trong ngữ cảnh triết học Hy Lạp, nhưng cũng được các triết gia hiện đại như Schopenhauer2 và Kurt Gödel3 sử dụng. Nó có một vai trò nổi bật trong tác phẩm Ulysses của James Joyce và nó cũng có liên hệ với tư tưởng của Nietzsche.4
Một thuật ngữ khác đồng nghĩa đôi khi được dùng là Palingenesia. Triết gia Hy Lạp có liên quan đến luân hồi (metempsychosis) sớm nhất chính là Pherecydes xứ Syros,5 nhưng Pythagore, được biết là học trò của ông, là người khuếch trương triết lý nổi bật này đầu tiên. Pythagore không phải là người phát kiến học thuyết này và cũng chẳng phải đã du nhập từ Ai Cập, nhưng ông đã làm cho chính mình nổi tiếng khi đưa quan niệm của Orphic từ miền Đông bắc Hellas đến Magna Graecia và bằng vào việc nối kết những cộng đồng dành cho sự quảng bá học thuyết đó.
Heraclides Ponticus đã kể lại câu chuyện rằng Pythagore tuyên bố ông đã trải qua bốn kiếp sống trước đây và ông có thể kể ra chi tiết từng kiếp sống đó. Trong một kiếp sống, theo Aulus Gellius kể lại, Pythagore là một kỹ nữ xinh đẹp. Theo Xenophanes, Pythagore đã nghe được tiếng khóc của người bạn ông trong tiếng sủa của con chó.6
Xenophanes chú ý đến câu chuyện Pythagore làm trung gian hòa giải thay cho con chó bị đánh đập. Ông thú nhận rằng đã nhận ra trong tiếng kêu của con chó là giọng nói của người bạn đã qua đời. Pythagore cho đó là tiếng nói của Euphorbus, con trai của Panthus, đã mất trong trận chiến thành Trojan, cũng như những cá tính khác của ông, là một thương gia, một kỹ nữ7 v.v...
Trong tác phẩm The Life of Apollonius of Tyana, Philostratus viết rằng Pythagore không những chỉ biết rõ ông là ai, mà còn biết rõ ông đã từng là người như thế nào.8 Thực ra, tầm quan trọng và sức nặng của học thuyết luân hồi (metempsychosis) ở Tây phương là do sự thừa nhận của Plato.
Trong thần thoại Mạt thế luận (eschatological) khép lại tác phẩm Republic của mình, Platon đã trình bày cách mà Er, con trai của Armenius, sống lại sau khi chết 12 ngày và kể lại những bí ẩn của thế giới bên kia như thế nào. Er nói rằng sau khi chết, nó đi vào tòa phán xét (Judgment) và thấy có những linh hồn (soul) trở lại từ cõi trời (heaven), và họ bắt đầu với cảnh giới tương ứng với chọn lựa kiếp sống mới của họ, làm người hay loài vật. Er thấy linh hồn của Orpheus biến thành con thiên nga, linh hồn Thamyras biến thành chim sơn ca, linh hồn những con chim biết hót chọn sự tái sinh làm người, linh hồn của Atalanta chọn tái sinh thành một lực sĩ danh giá. Con người biến thành loài vật. Loài dã thú và súc vật đã được thuần hóa biến đổi cho nhau. Sau khi chọn lựa, linh hồn được uống nước sông Lethe,9 rồi họ vụt tắt như sao băng qua kiếp sống mới. Có nhiều huyền thoại và giả định về cùng một ấn tượng trong những cuộc đối thoại khác như về Phaedrus, Meno, Phaedo, Timaeus và về luật pháp. Chúng ta có thể tìm hiểu thêm về quan niệm linh hồn đầu thai của Pythagore qua Platon, vì Platon chịu ảnh hưởng của Pythagore khá nhiều. Theo quan niệm của Plato, số lượng của linh hồn là cố định; do vậy, sự tái sinh không phải là sự sáng tạo nên một linh hồn mới, mà chỉ là sự chuyển di từ thân này đến thân khác.10 Nhưng quan niệm luân hồi (metempsychosis) của Plato lại bị phản bác bởi nhiều học giả trong thời hiện đại, chẳng hạn như Marsilio Ficino trong luận đề của ông Platonic Theology 17.3-4. Ở đó ông cho rằng ám chỉ của Plato về luân hồi chỉ là phép phúng dụ (allegory).
Arthur Schopenhauer (1788-1860), nhà toán học kiêm triết gia người Đức nói về luân hồi như sau: “Ta thấy rằng lý thuyết luân hồi khởi xuất từ thuở sơ khai, trong thời kỳ vàng son của nhân loại, luôn luôn lan rộng trong nhân gian, được coi là tín ngưỡng của phần lớn mà cũng là giáo lý của tất cả tôn giáo; ngoại trừ tín ngưỡng của người Do Thái và hai tôn giáo xuất xứ từ hình thức thật tế nhị của tín ngưỡng ấy (Hồi giáo và Cơ-đốc giáo).
Các thuyết luân hồi đã biến chuyển đến rất gần chân lý mà Phật giáo đề cập. Như vậy, trong lúc Cơ-đốc giáo tự an ủi với ý tưởng sẽ tự gặp trở lại trong một thế gian khác, trong thế gian ấy sẽ tìm lại trọn vẹn nhân cách của mình, và cũng sẽ tự nhận ra tức khắc, thì theo các tôn giáo khác, sự gặp gỡ trở lại đã diễn tiến nhiều lần, nhưng ta không nhận thức được. Trong những kiếp tái sinh liên tục tái diễn, những người đã có liên quan mật thiết hoặc có tiếp xúc ngay với nhau sẽ gặp lại trong một kiếp sống vị lai, cũng lại có sự liên hệ với nhau hoặc y hệt, hoặc tương tự, và những tình cảm, thiện hay ác, đối với nhau như trong kiếp sống này… Như được ghi chép nơi kinh Phệ-đà và tất cả các kinh sách khác ở Ấn Độ, thuyết luân hồi được xem là nền tảng của Bà-la-môn giáo và Phật giáo.
Cho đến nay, phần lớn các dân tộc Á Đông không phải Hồi giáo, hơn phân nửa nhân loại, vẫn tin vững chắc vào thuyết luân hồi và đời sống thực tế hàng ngày vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc thuyết này. Đó cũng là tín ngưỡng của người Ai Cập và từ Ai Cập, Orphée, Pythgore và Platon đã nhiệt liệt nhận lãnh. Theo như trên, sự tin tưởng vào thuyết luân hồi tự nó là niềm tin quả quyết tự nhiên của con người mỗi khi nghĩ đến vấn đề này mà không bị ám ảnh trước”. (The World As Will And Idea).
Theo triết học Phệ-đà, tư tưởng cổ đại Ấn Độ, quan niệm luân hồi (saṃsāra) mang ý nghĩa khác hơn. Đối tượng đi đầu thai, hay chịu luân hồi là Ātman. Theo các nguồn thư tịch cổ xưa nhất thì Ātman có nghĩa là hơi thở (breath), như trong Ṛg-veda X, 16, 3: Sūryam cākṣuḥ gacchatu, vātam ātmā. Đây là lời đọc trước người chết, có nghĩa là “Nguyện cho con mắt người đi cùng với mặt trời, hơi thở (ātmā) đi về cùng với gió”. Thế nên Ātman có nghĩa là hơi thở sinh động, sức sống. Thế nên tinh thần hay hơi thở, thường được dùng trong ý nghĩa mà chúng ta gọi là linh hồn (soul). Từ đó, Ātman thường được hiểu là sự sống (life), tinh thần (spirit).
Từ linh hồn (soul) chỉ có một bước nhỏ để sang ngã (Self), và bước đó thường có ý nghĩa cấu trúc ngữ pháp hơn là thực tế. Chúng ta đọc được trong Atharva-veda IX, 5, 30: Ātmānaṃ pitāraṃ putraṃ paiitraṃ pitllmahaṃ, Jāyāṃ jānitrim mātāraṃ ye priyās tān ūpa hvaye. “Chính tôi, (đối với) cha, con, ông nội, vợ, mẹ, bất cứ người nào cũng là thân thiết. Tôi mong họ được như vậy”. Nhưng ở đây ngã (Self) còn có thể được dịch là linh hồn (soul) hay người (person).
Lại nữa, trong Ṛg-veda IX, 113: Balām dādhānaḥ ātmāni, có nghĩa là đặt sức mạnh trên chính mình.11 Và sn trở thành đại danh từ chuẩn mực chỉ cho tự thân. Và từ đó có quan niệm chính Ātman, tự cái Ta chịu luân hồi (saṃsāra). Ātma ở đây có thể dịch là tinh thần của cuộc sống. Nhưng trong một đoạn văn khác, Ātman đơn giản biểu thị cho bản chất nội tại của vạn vật, và đặc biệt hơn là của con người, để cuối cùng nó có nghĩa rất giống những gì các triết gia thời trung cổ gọi là bản thể (quiddity), hay các triết gia Ấn Độ gọi là Idantā of things (sự đâm chồi của vạn vật).
Như thế, chúng ta đã đọc trước tiên câu: ātmānam ātmanā, paśya, có nghĩa là “Thấy cái ngã của mày bằng cái ngã của mày”; hoặc câu: ātmaiva hy ātmanaḥ sākṣī, có nghĩa là “ngã chính là chứng nhân của ngã”. Trong ý nghĩa này, Ātman về sau được dùng như là danh xưng của nhân vật cao nhất, là linh hồn của thế giới, Đệ nhất nhân (Paramātman), như trong Śatap Brāhmaṇa XIV, 5,5,15: Sa vā ayam ātmā, sarveṣāṃ bhūtānām adhipatiḥ, sarve-ṣāṃ bhūtānāṃ rājā. Có nghĩa là: “Cái ngã đó là quyền lực tối cao của mọi hữu tình, nó là vua của tất cả các loài”.12
Và khi Ātman thể nhập vào Brahmā, là đạt đến Đại diệu lạc, là hoàn tất tiến trình luân hồi (saṃsāra). Còn gọi là thể nhập tự ngã, Tiểu ngã (Ātman) vào Đại ngã (Brahama).
Đến thời Đức Phật, quan niệm này có phần khác hơn nữa. Theo đạo Phật, chúng sinh được sanh ra từ bào thai của nghiệp (S: karmayoni). Chính hành động hay nghiệp (karma) của chúng sinh trong quá khứ là cái bào thai nuôi dưỡng và tạo điều kiện để tái sanh. Cha mẹ cấu hợp nền tảng vật chất. Như vậy, trước chúng sanh có chúng sanh. Trước một chúng sanh trong kiếp hiện tại phải có một chúng sanh trong kiếp quá khứ. Lúc thọ thai, chính nghiệp (karma), tức hành vi của con người, đã tạo điều kiện cho thức (vijñāna) đầu tiên làm nguồn sống cho thai bào. Nếu cha và mẹ gặp nhau mà không nhằm thời kỳ thọ thai của mẹ và không có một chủng tử (S: gandharva; P: gandhabba; Hán: 乾闥婆) thì không có mầm sống. Nếu cha mẹ gặp nhau trong thời kỳ thọ thai của mẹ mà không có sự phối hợp của một chủng tử (gandharva) thì cũng không có mầm sống. Nếu cha mẹ gặp nhau nhằm thời kỳ thọ thai của mẹ và có một chủng tử thì có mầm sống...13
Gandharva ở đây không phải là một vị trời hay một bà mụ có bổn phận chứng kiến việc thọ thai, mà chỉ là một chủng tử, hay yếu tố nòng cốt trong bào thai. Thuật ngữ gandharva chỉ có ý nghĩa trong trường hợp đặc biệt này thôi. Không nên lầm lẫn với một linh hồn trường cửu.14 Có sự tái sanh ở chỗ này tất nhiên phải có một chúng sanh chết ở một nơi nào khác.
Nói một cách chính xác, sự sanh ra của một chúng sanh, tức sự cấu hợp của ngũ uẩn (khandhanam patubhavo), hay những hiện tượng tâm-vật-lý trong kiếp hiện tại, chuyển tiếp liền theo cái chết của một chúng sanh vừa qua đời, cũng giống như ta thường nói, khi mặt trời lặn ở một nơi tức là mặt trời mọc ở một nơi khác. Câu nói có vẻ bí hiểm ấy có thể rõ ràng và dễ hiểu hơn nếu ta hình dung đời sống như một lượn sóng, chứ không phải như một đường thẳng. Lượn sóng nổi lên, rồi hạ xuống để bắt đầu một lượn sóng mới. Tuy hai lượn sóng khác nhau nhưng không có một thời gian gián đoạn. Sanh và tử chỉ là hai giai đoạn trong một tiến trình. Sanh rồi tử, tử rồi sanh, sự luân lưu bất tận sanh-tử, tử-sanh của chuỗi dài những kiếp sống gọi là luân hồi (saṃsāra). Saṃsāra, luân hồi, theo đúng nghĩa uyên nguyên của danh từ, là cuộc đi thênh thang bất định và không ngừng.
Trong Atthasālinī, ngài Buddhaghosa định nghĩa danh từ saṃsāra như sau: Khandhanam patipati dhatu-ayatanana ca Abbhocchinam vattamana samsaro ti pavuccati.15 Nghĩa là, saṃsāra, luân hồi, là sự tiếp diễn không ngừng của ngũ uẩn, tứ đại và lục căn. Chấm dứt luân hồi (saṃsāra) chính là giải thoát, là cảnh giới Niết-bàn. Làm thế nào để đạt đến cảnh giới này? Đó là giáo lý mà Đức Phật đã giảng giải suốt 49 năm, từ khi Ngài chứng ngộ đến khi nhập diệt. Đó cũng chính là lý tưởng, là mục đích tối hậu của người tu học Phật pháp.
Vấn đề ăn chay
Trong một đoạn tự truyện giấu tên về Pythagore được ‘lưu trữ’ bởi Photius, cũng đề cập đến thuyết luân hồi: “Pythagore tránh không ăn thịt động vật do vì niềm tin cứng nhắc vào sự luân hồi (transmigration), và cũng vì thức ăn từ thịt đòi hỏi sự tiêu hóa rất nhiều, và quá nhiều chất béo. Họ cũng tránh dùng đậu (bean), vì khiến đầy hơi, và những lý do khác”.
Và trong một phát biểu khác: “Pythagore xác định rằng con người có thể phát triển theo ba cách: trước hết, bằng sự đối thoại với Thượng đế (God), vì đối với các ngài, không ai có thể tiếp cận các ngài được trừ phi tránh xa các việc ác, noi gương các bậc Thánh, thậm chí tiêu dung trong công hạnh các ngài; thứ hai, bằng tài năng, đó là đức tính của Thánh nhân; thứ ba, bằng niềm khát khao cho sự thoát ly thanh thản nhẹ nhàng linh hồn ra khỏi thể xác, như là kết quả từ sự rèn luyện để thăng hoa linh hồn như khởi đầu giấc mơ thần thánh...”16
Nơi mô tả này, có một trình bày về khả năng tồn tại của linh hồn khi tách lìa hẳn với thân xác, có một điềm báo trước trong giấc mơ, mối liên hệ giữa học thuyết luân hồi (transmigration) và sự kiêng cữ của người ăn chay. Còn có những đề cập đến kỷ luật rèn luyện để thăng hoa, khích lệ tái sinh trong đời sống cao hơn và xa lìa hẳn con đường ác.
Diogenes Laertius nêu lên rằng con đường tái sanh có mối liên hệ mật thiết với ký ức, như chúng ta có thể thấy trong một truyện ngụ ngôn, Pythagore đã chọn trí nhớ khi ông từ chối sự bất tử. Mặc dù sự chọn lựa này hàm ý rằng lẽ ra ông phải chết, nhưng chính trí nhớ là chìa khóa dẫn đến sự bất tử để vượt qua mê hồn trận.
Lại nữa, trí nhớ được nhấn mạnh bởi Iamblichus và Porphyry như là tiến trình của hồi tưởng. Và ký ức này có liên quan đến sự thực hành, liên quan đến mệnh lệnh đạo đức, chẳng hạn như kính trọng Nhất thể, đó là sống thực hành phép ăn chay (vegetarianism).17
Quan niệm ăn chay của Pythagore có phần nào tương đồng với quan niệm của Kỳ-na giáo (Jainism). Các môn đệ Kỳ-na giáo tin rằng tất cả các sinh vật dù là loài vi sinh (micro-organism) cũng có linh hồn, và chúng có một hay nhiều giác quan ngoài năm giác quan. Nên các đệ tử Kỳ-na giáo làm mọi điều có thể để giảm thiểu sự tổn hại đến đời sống sinh vật.
Hầu hết những tín đồ Kỳ-na giáo sùng kính đều không ăn rau củ, vì họ cho rằng rau củ chứa đựng nhiều loài vi sinh vật hơn so với các thứ rau khác. Thế nên họ chỉ ăn đậu và trái cây, mà việc trồng trọt những thứ ấy không phải dính líu đến việc sát hại quá nhiều vi sinh vật. Các thực phẩm được chế biến từ súc vật chết cũng không được sử dụng, vì khi một sinh vật bị chết, một số vi sinh vật (được xem như là decomposers - vi khuẩn hoặc nấm làm cho chất hữu cơ mau thối rữa) sẽ tái tạo trong cơ thể để phân hủy cơ thể, và khi ăn thịt động vật chết, sự xung đột từ việc phân hủy không thể nào tránh khỏi.
Các đạo sĩ Kỳ-na giáo thường tuyệt thực, và khi qua năng lực siêu nhiên mà họ biết rằng mạng sống của họ còn rất ngắn thì họ bắt đầu tuyệt thực cho đến chết.18 Đặc biệt có một số người chỉ sống bằng trái cây (fruitarian).19 Mật ong không được dùng, vì mật ong tổng hợp nhiều thứ như trứng, chất bài tiết, xác ong chết và nước bọt của ong.
Một số đạo sĩ Kỳ-na giáo không sử dụng phần thảo mộc sinh trưởng dưới đất như rễ cây và các loại củ, vì những vi sinh vật có thể bị tổn hại khi rễ và củ bị nhổ lên.20
Phật giáo có câu chuyện Thảo hệ Tỷ-khưu (草系比丘; S: Kuśa-vandhana), Tỷ-khưu bị trói bằng cỏ. Nhưng đây là thí dụ để nhấn mạnh việc Tỷ-khưu nghiêm giữ giới cấm. Trong Đại trang nghiêm kinh luận, quyển 3 có ghi: Có vị Tỷ-khưu đi giữa đường gặp giặc cướp, chúng liền dùng cỏ tươi trói họ lại, vì sợ làm đứt sự sống của cỏ nên các Tỷ-khưu không dám cởi trói.
Câu chuyện này được dùng để ví dụ việc giữ gìn giới cấm một cách nghiêm chỉnh của hàng xuất gia trong đạo Phật.
Ảnh hưởng đến vũ trụ luận
Niềm tin về luân hồi (metempsychosis) của linh hồn và chủ trương ăn chay của Pythagore đã có ảnh hưởng đến quan niệm về vũ trụ. Theo sử gia người Hy Lạp Diogenes Laertius, Pythagore là người đầu tiên dùng thuật ngữ kosmos để chỉ cho vũ trụ (universe). Và Pythagore chính là người đầu tiên công bố rằng thế giới là hình tròn.21
Giải thích theo từ nguyên học (etymology), kosmos là một cấu trúc (structure) mang tính hài hòa (harmony), có tổ chức (organisation) theo trật tự tự nhiên (natural). Vậy nên vũ trụ luận theo Pythagore là một toàn thể hài hòa, trong đó các hiện tượng thiên nhiên, các vật thể, các hình thái được tạo nên v.v... đều được sắp xếp thành một trật tự cân đối hài hòa. Ắt hẳn đây là quan niệm tiến bộ đương thời về vũ trụ luận. Từ đây đã ảnh hưởng đến các thế hệ triết gia về sau, gần nhất là Plato mà chúng ta thấy rõ nhất qua tác phẩm Cộng hòa quốc (The Republics) của ông.
Nhưng rồi theo thời gian, cũng bị chìm lắng trong các hệ tư tưởng duy lý khác. Mãi cho đến thời Giordano Bruno (1548-1600), người Ý, là triết gia, nhà toán học, thiên văn học, đưa ra những học thuyết tán thành khoa học hiện đại của Copernic, đó là thuyết vũ trụ vô hạn (infinite universe) và thế giới đa phương (multiplicity of worlds), trong đó ông phản đối thuyết địa tâm truyền thống (geocentric; earth-centred), và với trực giác, ông tán thành và khuếch trương thuyết nhật tâm (heliocentric; sun-centred) của Copernic. Quyết định này đã dẫn đến cái chết đầy bi tráng của Bruno, vì ông không khoan nhượng quan niệm phi lý của Giáo hội La-mã lẫn Giáo hội Cải cách đương thời.
Sau đó là Galileo Galilei (1564-1642), người đưa ra thuyết tất cả các hành tinh kể cả trái đất, đều quay quanh mặt trời, tán thành chủ thuyết của Copernic đã gây tranh cãi trong giới thiên văn học. Quan điểm địa tâm (các hành tinh quay quanh trái đất) đã là chủ thuyết thống trị từ thời Aristotle, và sự tranh cãi nảy sinh sau khi Galileo trình bày thuyết nhật tâm như một minh chứng, khiến Giáo hội La-mã cấm tuyên truyền nó như một sự thực đã được chứng minh.
Galileo cuối cùng bị ép buộc phải từ bỏ thuyết nhật tâm của mình và sống những ngày cuối đời trong cảnh bị quản thúc tại gia theo lệnh của tòa án dị giáo La-mã. Phải hơn 10 thế kỷ sau mới lóe sáng trở lại một vũ trụ quan tiến bộ tưởng chừng đã biến mất hẳn trong bầu trời phương Tây.
Thích Nhuận Châu
___________________
(1) Linforth, Ivan M. (1941) The Arts of Orpheus, Arno Press, New York, OCLC 514515. Long, Herbert S. (1948) A Study of the doctrine of metempsychosis in Greece, from Pythagoras to Plato (Long’s 1942 PhD dissertation) Princeton, New Jersey, OCLC 1472399.
(2) Schopenhauer, A: “Parerga und Paralipomena” (Eduard Grisebach edition), On Religion, Section 177.
(3) Gödel Exhibition: Gödel’s Century.
(4) Nietzsche and the Doctrine of Metempsychosis, in J. Urpeth & J. Lippitt, Nietzsche and the Divine, Manchester: Clinamen, 2000.
(5) Schibli, S., Hermann, Pherekydes of Syros, p. 104, Oxford Univ. Press 2001.
(6) Diogenes Laërtius, viii. 36.
(7) Porphyry, Vit. Pyth. 26; Pausanias, ii. 17; Diogenes Laërtius, viii. 5; Horace, Od. i. 28,1. 10. (8) Flavius Philostratus, The Life of Apollonius of Tyana, tr. F. C. Conybeare, Vol. 2, London, 1912, Book VI, p. 39.
(9) Tương đương trong dân gian thường truyền nhau sau khi chết, linh hồn đến gặp Diêm vương. Sau khi Diêm vương luận tội xong, bèn cho ăn Cháo lú rồi mới cho đi đầu thai. Chuyện này có lẽ ảnh hưởng truyền thống Trung Hoa. Trong thần thoại Hy Lạp, Lethe là một trong 5 con sông ở địa ngục Hades. Còn gọi là Ameles potamos (Dòng nước lãng quên). Sông Lethe chảy quanh hang động Hypnos và đi qua các luyện ngục, nơi mà các linh hồn sau khi đã uống Dòng nước lãng quên xong liền mất hết ký ức, kinh nghiệm và trí nhớ. Lethe cũng là tên của một vị thần Hy Lạp, chủ của sự lãng quên.
(10) Republic X, 611. The Republic of Plato By Plato, Benjamin Jowett Edition: 3 Published by Clarendon press, 1888.
(11) Max Müller, The Six Systems of Indian Philosophy, 1919, Bombay, Calcutta, and Madras.
(12) Sđd, tr. 84-86.
(13) Majjhima Nikāya (Trung bộ kinh), Mahatanhasamkhaya sutta, số 38.
(14) Sđd.
(15) Atthasālinī (Pāli) do ngài Phật Âm (Buddhaghosa) biên soạn trong truyền thống A-tỳ-đạt-ma Nam phương Thượng tọa bộ (Theravāda Abhidharma). Bản dịch tiếng Anh là The Expositor hay Providing the Meaning. Trong đó ngài Phật Âm giải thích những thuật ngữ có trong Dhammasangani, một bản kinh trong tạng Nam truyền.
(16) Guthrie, K.S., Pythagorean Sourcebook, tr. 138.
(17) James Luchte, Wandering Souls: The Doctrine of Transmigration in Pythagorean Philosophy. Manuscript was published with some variations by Bloomsbury, 2009.
(18) Vegetarianism Good for The Self and Good for The Environment at The Jain Study Circle.
(19) Matthews, Warren: World Religions, 4th edition, Belmont: Thomson/Wadsworth 2005, p. 180. ISBN 0-534-52762-0.
(20) “Jainism” at JainUniversity.org
(21) Diogenes Laertius, The Lives and Opinions of Eminent Philosophers, Tsl. By C.D Yongle, Book VIII.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Max Müller, The Six Systems of Indian Philosophy, 1919, Bombay, Calcutta, and Madras.
- Tuệ Sỹ, A-tỳ-đạt-ma Câu-xá, tập I, II. NXB. Phương Đông, 2012.
- Majjhima Nikāya, Mahatanhasamkhaya sutta, số 38. HT.Thích Minh Châu dịch.
- Chambers, Dictionary of Etymology, Ed. Robert K Barnart. 1988.
- William Keith Chambers Guthrie, (1978), A history of Greek philosophy, Volume 1: The earlier Presocratics and the Pythagoreans, page 173. Cambridge University Press
- Smith, William, ed. (1867). Dictionary of Greek and Roman Biography and Mythology.
- Riedweg, Christoph (2005). Pythagoras: His Life, Teaching and Influence. Cornell University. pp. 5-6, 59, 73.
- Flavius Philostratus, The Life of Apollonius of Tyana, trad. F. C. Conybeare, vol. 2, London, 1912, Book VI, p. 39.
Nguồn: Nguyệt san Giác ngộ