Pháp thí thắng mọi thí - Pháp hỷ thắng mọi hỷ - Ái diệt thắng mọi khổ - Niết-bàn lạc tối thượng.

>>

DẪN LUẬN KINH TRƯỜNG BỘ

Mục lục


 

I. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN

Kinh Trường bộ (P. Dīgha Nikāya, H. 長部經) là bộ đầu tiên trong năm bộ kinh Pāli (Pāli Nikāya) của Phật giáo Thượng Tọa bộ (Theravāda); là tuyển tập 34 kinh dài (The Long Discourses) trong Kinh tạng Pāli (Sutta Piṭaka), tương ứng với 30 bài Trường A-hàm kinh (S. Dīrgha Āgama, H. 長阿含經). Khái niệm “trường” (dīgha, 長) có nghĩa đen là “dài” về số lượng chữ của từng bài kinh trong bộ này. Về tổng số trang, Kinh Trường bộ có số trang ít nhất trong 5 bộ kinh Pāli.

Kinh Trường bộ nhiều hơn Trường A-hàm kinh trong văn học Hán tạng của phái Dharmaguptaka (Pháp Tạng bộ) 4 bài kinh, vốn là bộ đầu tiên trong Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh (大正新脩大蔵經, Taishō edition). Có 6 kinh trong Kinh Trường bộ có nội dung trùng lặp hoặc vì quan điểm khác biệt về phương pháp tu tập, nên không có kinh tương ứng trong Trường A-hàm kinh, gồm: Kinh Mahāli (Mahāli Sutta, số 6); Kinh Jāliya (Jāliya Sutta, số 7); Kinh Subha (Subha Sutta, số 10); Kinh Đại niệm xứ (Mahāsatipaṭṭhāna Sutta, số 22); Kinh Tướng (Lakkhaṇa Sutta, số 30), và Kinh A-sá-nang-chi (Āṭānāṭiya Sutta, số 32).
Kinh Trường bộ Trường A-hàm kinh có một số điểm dị biệt về thứ tự các bài kinh, cách đặt tựa đề kinh, các khái niệm và nội dung từng bài kinh.
Về nội dung, Kinh Trường bộ tường thuật về các đối thoại liên tôn giáo và triết học giữa đức Phật với các đạo sĩ Sa-môn và Bà-la-môn đương thời, thông qua đó, giúp chúng ta hình dung được các phong trào tôn giáo và triết học thời Phật; đồng thời, cho thấy triết học thực tiễn của đạo Phật vượt lên trên các tôn giáo hữu thần và vô thần thời đức Phật.
Về phân loại, Kinh Trường bộ được chia thành 3 phẩm (vagga):
(i) Phẩm Giới uẩn (Sīlakkhandhavagga) gồm 13 bài kinh nói về đạo đức (sīla) chuẩn mực và thanh cao.
(ii) Phẩm Đại (Mahāvagga) gồm 10 bài kinh nói về cuộc đời đức Phật và một số giáo pháp căn bản.
(iii) Phẩm Pāthika (Pāthikavagga) gồm 11 bài kinh giới thiệu về vũ trụ luận, cách tu của ngoại đạo, trách nhiệm gia đình, xã hội và tâm linh.
Về bản dịch tiếng Anh, hiện có 3 bản dịch Anh ngữ hoàn chỉnh và một số bản trích dịch. Quyển Dialogues of the Buddha (Đối thoại của đức Phật) do T. W. Rhys Davids và C. A. F. Rhys Davids dịch, 3 quyển, NXB. Pali Text Society, năm 1899-1921 là bản dịch sớm nhất. Bản dịch của Maurice Walshe với tựa đề: The Long Discourses of the Buddha: A Translation of the Dīgha Nikāya (Các bài kinh dài của đức Phật: Bản dịch Kinh Trường bộ) do NXB. Wisdom Publications, Boston, năm 1987; tựa gốc trong bản tiếng Anh là: Thus Have I Heard (Tôi nghe như vầy). Bản dịch của Bhikkhu Sujato có tựa đề: The Long Discourses (Các bài kinh dài), xuất bản năm 2018 dưới dạng E-book (gồm Epub, Kindle, PDF, MS Word) miễn phí tại trang SuttaCentral (www.suttacentral.net).
Ngoài ra, còn có các quyển trích dịch gồm: Long Discourses of the Buddha (Các bài kinh dài của đức Phật) do A. A. G. Bennett dịch và ấn hành tại Bombay năm 1958 gồm các kinh 1-16. Tác phẩm The Buddha’s Philosophy of Man: Early Indian Buddhist Dialogues (Triết học về con người của đức Phật: Các cuộc đối thoại của Phật giáo Ấn Độ thời kỳ đầu) do Rhys Davids tuyển dịch và Trevor Ling biên tập, NXB. Everyman, London, chọn dịch 10 kinh gồm các kinh số 2, 4, 5, 9, 12, 16, 22, 25, 27, 31. Quyển Ten Suttas from Dīgha Nikāya (Mười kinh dài trong Kinh Trường bộ) do Burma Piṭaka Association ấn hành tại Rangoon, 1985, gồm các kinh 1, 2, 9, 15, 16, 22, 26, 28, 29, 31.
Tại Việt Nam, bản dịch của Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu với tựa đề Kinh Trường bộ, xuất bản 3 lần mới trọn bộ. Lần thứ nhất vào năm 1965 với 3 kinh đầu, lần thứ hai vào năm 1967 với 10 kinh (4-13), lần thứ ba vào năm 1972 với 21 kinh (14-34) chia thành 2 tập. Như vậy, Kinh Trường bộ trong giai đoạn đầu gồm 4 tập. Từ năm 1991 đến nay, bộ này được tái bản nhiều lần, 2 tập rồi 1 tập. Bản dịch này của Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu được xem là bản dịch trung thành với nguyên tác Pāli, góp phần làm thay đổi tích cực hệ thống Phật học tại Việt Nam trong hơn bảy thập niên qua.

II. KHÁI QUÁT NỘI DUNG
A. Phẩm Giới uẩn
(Sīlakkhandhavagga)

1. Kinh Phạm võng (P. Brahmajāla Sutta, H. 梵網經, “Tấm lưới của Phạm thiên”) tương đương Phạm động kinh.[1] Nhân vì hai thầy trò du sĩ ngoại đạo có quan điểm trái ngược, người thầy là Suppiya dùng nhiều lời chỉ trích đức Phật, trong khi đệ tử là Brahmadatta lại dùng nhiều lời tán thán, đức Phật đã dạy cách ứng xử thản nhiên trước lời thị phi, đồng thời giới thiệu ba cấp giới hạnh: Giới hạnh nhỏ, giới hạnh vừa, giới hạnh lớn. Ngoài ra, đức Phật phê bình và dạy cách chuyển hóa 62 kiến chấp gồm 18 kiến chấp về quá khứ (Thường trú luận, Vô thường luận, Thế giới hữu biên hay vô biên, Thuyết ngụy biện và Vô nhân luận) và 44 kiến chấp về tương lai (gồm Hữu tưởng luận, Vô tưởng luận, Phi hữu tưởng phi vô tưởng luận, Đoạn diệt luận, Hiện tại Niết-bàn luận).
2. Kinh Sa-môn quả (P. Sāmaññaphala Sutta, H. 沙門果經) tương đương kinh cùng tên trong bộ Trường A-hàm.[2] Nhân dịp Vua Ajātasattu nhờ đức Phật cứu độ về tội giết cha, đức Phật giải thích tác hại tà thuyết của sáu ngoại Đạo sư: (i) Thuyết Không có nghiệp báo của Pūraṇa Kassapa; (ii) Thuyết Luân hồi tịnh hóa của Makkhali Gosāla; (iii) Thuyết Đoạn diệt của Ajita Kesakambala; (iv) Thuyết Bảy thân bất hoại của Pakudha Kaccāyana; (v) Thuyết Lõa thể với bốn cấm giới của Nigaṇṭha Nāṭaputta; (vi) Thuyết Ngụy biện của Sañjaya Belaṭṭhaputta. Đồng thời, đức Phật giải thích về các công đức của bậc chân tu: Được kính nể, tăng trưởng đạo đức, làm chủ giác quan, chánh niệm tỉnh giác, thiểu dục tri túc, dứt năm trói buộc tâm, chứng đắc bốn thiền, thành tựu trí tuệ, đạt được các thần thông và giải thoát tri kiến.
3. Kinh Ambaṭṭha (A-ma-trú) (P. Ambaṭṭha Sutta, H. 阿摩晝經) tương đương kinh cùng tên trong bộ Trường A-hàm.[3] Trước thái độ cao ngạo về huyết thống của Ambaṭṭha, đức Phật truy nguồn gốc mẹ của Ambaṭṭha là nữ tỳ của dòng họ Sākya. Phủ định giai cấp, đức Phật khẳng định rằng người nào có giới hạnh và trí tuệ đầy đủ sẽ trở thành tối thắng giữa loài người. Nhân đó, đức Phật giảng về Tứ diệu đế, bố thí, sống đạo đức, quả phước ở các cõi trời.
4. Kinh Chủng Ðức (P. Soṇaḍaṇḍa Sutta, H. 種德經) tương đương kinh cùng tên trong bộ Trường A-hàm.[4] Nhân dịp các Bà-la-môn cao ngạo rằng mình là người có huyết thống thuần khiết bảy đời, thông hiểu ba bộ Vệ-đà, giỏi thần chú, tướng mạo đoan trang, đầy đủ đức hạnh, sáng suốt trí tuệ, đức Phật cho rằng trí tuệ và đạo đức làm cho con người trở nên tối thắng, chứ không phải giai cấp và huyết thống. Nơi nào có trí tuệ, nơi ấy có đạo đức. Theo đức Phật, người xứng danh Bà-la-môn phải là người thành tựu trí tuệ, đạo đức.
5. Kinh Cứu-la-đàn-đầu (P. Kūṭadanta Sutta, H. 究羅檀頭經) tương đương kinh cùng tên trong bộ Trường A-hàm.[5] Trái với các lễ tế đàn của Bà-la-môn: Đẫm máu, chặt cây, phạt nô tỳ… đức Phật dạy tế đàn cao quý bằng cách cúng dường người đạo đức, xây dựng tự viện, quy ngưỡng Tam bảo, giữ năm đạo đức, chứng đắc bốn thiền và giúp người thấy và sống với chân lý. Để chấm dứt các tệ nạn, làm cho xã hội an bình, đức Phật cho rằng hình phạt không phải là giải pháp, mà chính là việc hỗ trợ nhân dân đúng thời, đúng cách.
6. Kinh Mahāli (P. Mahāli Sutta, H. 摩訶梨經) không có bản tương đương trong bộ Trường A-hàm. Thay vì các Bà-la-môn bị vướng kẹt vào thiên sắc, thiên âm và tranh luận vô ích về thân thể, về quan điểm “tâm thức là một hay khác”; đức Phật dạy con đường kết thúc khổ đau bằng cách chuyên tu đạo đức qua ba cấp (tiểu giới, trung giới, đại giới), đạt bốn cấp thiền định, phát triển trí tuệ, hướng đến sự kết thúc các khổ đau.
7. Kinh Jāliya (P. Jāliya Sutta, H. 闍利經) không có bản tương đương trong bộ Trường A-hàm. Nhân dịp hai vị xuất gia thảo luận về thân và tâm là đồng nhất hay dị biệt, đức Phật hướng dẫn cách phát triển trí tuệ trên nền tảng bốn chân lý Thánh để vượt qua mọi khổ đau.
8. Kinh Ca-diếp Sư tử hống (P. Kassapasīhanāda Sutta, H. 迦叶狮子吼經) tương đương Lõa hình Phạm chí kinh.[6] Ngoài việc chứng minh tác hại của tu khổ hạnh ép xác của đạo Bà-la-môn, đức Phật dạy hạnh tu khó làm, bao gồm phát triển tâm từ bi, giữ đầy đủ các điều đạo đức nhỏ, vừa và lớn, làm chủ các giác quan, giải thoát các trói buộc bằng trí tuệ và chứng đạt bốn thiền nhằm vượt qua các khổ đau.
 9. Kinh Poṭṭhapāda (Bố-tra-bà-lâu) (P. Poṭṭhapāda Sutta, H. 布吒婆楼經) tương đương bài kinh cùng tựa đề trong bộ Trường A-hàm.[7] Kinh này dạy cách chấm dứt các tạp tưởng bằng phương pháp sống đạo đức, tu tập thiền định, phát triển trí tuệ để vượt qua ba hình thái: Chấp ngã qua hình tướng, chấp ngã qua các đặc điểm thân, chấp ngã quá khứ và tương lai. Không nên mất thời giờ cho các câu chuyện siêu hình, hãy siêng tu bốn chân lý Thánh để giác ngộ và giải thoát.
10. Kinh Subha (Tu-bà) (P. Subha Sutta, H. 須婆經) không có kinh tương đương trong bộ Trường A-hàm, được Tôn giả Ānanda giảng sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tu tập đạo đức, thiền định và trí tuệ.
11. Kinh Kevaddha (Kiên Cố) (P. Kevaddha Sutta, H. 堅固經) tương đương bài kinh cùng tên trong bộ Trường A-hàm.8 Thấy sự nguy hiểm và mặt trái của việc biểu diễn các thần thông biến hóa, đức Phật đề cao “giáo hóa thần thông” tức “giáo dục là phép mầu” chuyển hóa khổ đau bằng cách giáo dục đạo đức và thiền định để chấm dứt năm trói buộc tâm, trải nghiệm tâm thơ thới, hoan hỷ, khinh an, lạc thọ, định tĩnh. Đồng thời, đức Phật khẳng định Thượng đế không có thật, nếu có thì Thượng đế không phải là đấng Toàn trí, Toàn năng và Toàn bi.
12. Kinh Lohicca (Lộ-già) (P. Lohicca Sutta, H. 露遮經) tương đương bài kinh cùng tựa đề trong bộ Trường A-hàm.[8] Khi được hỏi tại sao nhiều Sa-môn và Bà-la-môn đạt thiện pháp nhưng ích kỷ, không giáo huấn tha nhân, đức Phật phê phán 3 loại Đạo sư: (i) Không tự giác, không giác tha; (ii) Không tự giác nhưng giác tha; (iii) Tự giác nhưng không giác tha. Đồng thời, đức Phật đề cao hạng Đạo sư “tự giác và giác tha”, gồm tu đạo đức thanh cao, thực tập bốn thiền, tháo mở các trói buộc tâm, tinh tấn truyền bá Chánh pháp để giúp mọi người được lợi ích và an vui.
13. Kinh Tam minh (P. Tevijja Sutta, H. 三明經) tương đương bài kinh cùng tựa đề trong bộ Trường A-hàm.[9] Nhân hai vị Bà-la-môn tranh luận về việc cộng trú ở cõi trời Phạm thiên, đức Phật khẳng định rằng các Bà-la-môn còn dục ái, hận tâm, sân tâm và nhiễm tâm không thể nào cộng trú ở cõi trời Phạm thiên được, bởi nơi đây đã vắng mặt hoàn toàn các uế trược này. Ngược lại, một vị Tỳ-kheo đoạn trừ sạch năm triền cái, an trú biến mãn với tâm có từ, bi, hỷ, xả có thể cộng trú ở cõi trời Phạm thiên. Theo đó, đức Phật khích lệ đại chúng tu tập bốn tâm vô lượng gồm từ, bi, hỷ, xả; kết thúc năm trói buộc tâm, vượt qua năm dục lạc để có được an lạc bây giờ và tại đây.

B. Phẩm Đại (Mahāvagga)

14. Kinh Đại bổn (P. Mahāpadāna Sutta, H. 大本經) tương đương bài kinh cùng tựa đề trong bộ Trường A-hàm.[10] Kinh này kể các tích truyện về sáu vị Phật quá khứ trước Phật Thích-ca gồm: Cách sinh đứng, có 32 tướng Đại nhân, xuất gia vì lý tưởng, khuyến khích tu tập đạo đức và thiền định, thuyết pháp phù hợp căn tính, truyền bá bốn sự thật vì lòng thương tưởng đời, mang lại hạnh phúc cho mọi người.
15. Kinh Đại duyên (P. Mahānidāna Sutta, H. 大緣經) tương đương Đại duyên phương tiện kinh.[11] Trong kinh này, đức Phật dạy rõ sự hỗ tương của chín nhân duyên căn bản gồm: Thức, danh sắc, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử theo hai chiều thuận và nghịch. Chính chín mắc xích sự sống này khiến người thiếu trí làm việc bất thiện, chịu khổ đau trong vòng luân hồi. Bài kinh còn nêu các quan niệm ngã chấp sai lầm, bảy trú xứ của thức, và việc tu tập giải thoát qua tám cách khác nhau.
16. Kinh Đại Bát-niết-bàn (P. Mahāparinibbāna Sutta, H. 大般涅槃經) tương đương với Du hành kinh.[12] Trước lúc nhập Niết-bàn, đức Phật ôn lại những giáo pháp căn bản: Bảy sức mạnh của quốc gia và Tăng đoàn, bảy tài sản Thánh, bảy yếu tố giác ngộ, bảy pháp quán tưởng dứt trừ khổ đau, sáu yếu tố hòa hợp, vai trò của Giới - Định - Tuệ, năm nguy hiểm do phạm giới, Tứ Thánh đế, cảnh giới tái sinh, tin sâu Tam bảo, tu chánh niệm, phát tâm cúng dường, không có mật pháp và thành tựu tám giải thoát.
17. Kinh Đại Thiện Kiến Vương (P. Mahāsudassana Sutta, H. 大善見王經).[13] Đức Phật giải thích lý do chọn Kusinārā làm nơi xả bỏ thân tứ đại như truyền thống nhập Niết-bàn của chư Phật quá khứ. Đồng thời, đức Phật kể về kiếp quá khứ của Ngài làm Vua Đại Thiện Kiến thích bố thí, không bóc lột chư hầu, xây dựng Chánh pháp khắp đất nước, dứt dục vọng, sân hận, não hại; tu từ, bi, hỷ, xả, chứng đắc bốn thiền, an nhiên trong sinh tử.
18. Kinh Xà-ni-sa (P. Janavasabha Sutta, H. 闍尼沙經) tương đương bài kinh cùng tựa đề trong Trường A-hàm kinh.[14] Vua Bimbisāra (Tần-bà-sa-la) tái sinh vào cõi trời Cātummahārājika (Tứ Thiên Vương), khen ngợi giáo pháp Phật có khả năng giúp người tu tái sinh thiên giới, hưởng các phước báu to lớn. Tại cõi trời, tiếp tục phát triển thiện dục, tinh tấn, thiền định, tu tâm; tu bốn chánh niệm, tám chánh đạo và truyền bá Phật pháp, mở cửa bất tử cho con người.
19. Kinh Ðại Ðiển Tôn (P. Mahāgovinda Sutta, H. 大典尊經) tương đương Điển Tôn kinh.[15] Kinh nói về kiếp trước của đức Phật làm Quốc sư Govinda. Sau khi giúp đất nước và nhân dân được giàu có, Govinda đi tu, bỏ lại tất cả lạc thú. Khi giác ngộ, Ngài truyền bá Bát chánh đạo, giúp mọi người giác ngộ và chứng Niết-bàn. Qua đó, đức Phật giải thích lý tưởng độ sinh vì thương đời, truyền bá giáo pháp với năm đặc điểm: Dạy đạo đức, chỉ đường Niết-bàn, sống chung hòa hợp, lời nói đi đôi việc làm, không cao ngạo.
20. Kinh Đại hội (P. Mahāsamaya Sutta, H. 大會經) tương đương bài kinh cùng tựa đề trong bộ Trường A-hàm.[16] Chư thiên ở nhiều cõi giới đến thăm viếng, tán dương Phật, nghe chân lý và thực tập chuyển hóa theo hướng dẫn của Phật.
21. Kinh Ðế-thích sở vấn (P. Sakkapañha Sutta, H. 帝釋所問經) tương đương Thích-đề-hoàn-nhân vấn kinh.[17] Đức Phật phân tích mắc xích khổ đau từ hận thù, ganh ghét, bỏn xẻn, ưa ghét; hai mặt của hỷ, ưu và xả; sự dị biệt tôn giáo là do khác nhau về bản chất, nguyên nhân ra đời, mục đích phụng sự. Đồng thời, đức Phật dạy về lợi ích của tâm không còn hận thù và giá trị của nghe và thực tập Chánh pháp.
22. Kinh Đại niệm xứ (P. Mahāsatipaṭṭhāna Sutta, H. 大念處經) tương đương Niệm xứ kinh[18] trong bộ Trung A-hàm. Phật dạy phương thức quán sát và làm chủ để đạt chánh niệm, tỉnh thức: (i) Làm chủ hơi thở và sự vận động của thân; thân thể được cấu tạo bởi đất, nước, lửa, gió nên vô thường và nhơ uế; quán 9 giai đoạn tử thi để không chấp thân; (ii) Cảm giác hạnh phúc, khổ đau và trung tính đối với thân, tâm; (iii) Tám cặp đặc tính của tâm gồm tham - không tham, sân - không sân, si - không si, tập trung - tán loạn, quảng đại - nhỏ nhoi, hữu hạn - vô hạn, định - không định, giải thoát - trói buộc; (iv) Pháp: Cắt đứt năm trói buộc tâm, không chấp năm uẩn, sáu giác quan và sáu đối tượng giác quan. Đồng thời tu bảy yếu tố giác ngộ, bốn chân lý để kết thúc khổ đau.
23. Kinh Tệ-túc (P. Pāyāsi Sutta, H. 弊宿經) tương đương bài kinh cùng tựa đề trong bộ Trường A-hàm.[19] Kinh khắc họa cuộc đối thoại triết học về tái sinh giữa một cao Tăng và một vị vua hoài nghi. Một số dụ ngôn được sử dụng trong kinh này nhằm chứng minh sự thật rằng “chết không phải là hết”, thông qua đó, giáo dục mọi người tin sâu nhân quả, chịu trách nhiệm về những gì mình làm, sống đời đạo đức thanh cao để hưởng an vui và hạnh phúc ở hiện tại và tương lai.

C. Phẩm Pāthika (Pāthikavagga)

24. Kinh Ba-lê (P. Pāthika Sutta, H. 波梨經) tương đương A-nậu-di kinh.21 Nhân sự kiện một Tăng sĩ bỏ tu vì thất vọng đức Phật không thi thố thần thông, không giải thích về nguồn gốc thế giới, đức Phật phân tích việc cho rằng thế giới này được hình thành bởi Thượng đế (chủ nghĩa duy thần), bởi vật chất (chủ nghĩa duy vật), do tâm tạo ra (chủ nghĩa duy tâm) và do sự ngẫu nhiên (ngẫu nhiên luận). Đức Phật khẳng định vai trò của giáo hóa chính là thần thông; thay vì biểu diễn thần thông, kêu gọi mọi người truyền bá Chánh pháp, giúp cuộc đời kết thúc khổ đau.
25. Kinh Ưu-đàm-bà-la Sư tử hống (P. Udumbarikā Sīhanāda Sutta, H. 優曇婆邏狮子吼經) tương đương Tán-đà-na kinh.[20] Kinh mô tả cuộc đối thoại tôn giáo. Đức Phật không quan tâm đến việc cải đạo người khác theo mình mà tập trung vào việc dẫn dắt mọi người kết thúc khổ đau, bất luận họ là ai, theo đạo nào, làm gì trong xã hội. Chánh tri kiến, đạo đức và tu thiền là phương pháp thực tập đưa đến dứt khổ, được vui.
26. Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư tử hống (P. Cakkavatti Sīhanāda Sutta, H. 轉輪聖王狮子吼經) tương đương Chuyển Luân Thánh Vương tu hành kinh.[21] Lấy kiếp quá khứ của bản thân làm ví dụ, đức Phật nói về nguyên nhân sụp đổ của dòng vua chúa trong quá khứ và sự suy thoái xã hội sau đó. Kinh dự đoán Phật Di-lặc sẽ ra đời trong những kiếp tương lai nhằm phục hưng đạo đức và mang lại hạnh phúc cho con người. Nhân đó, kinh này dạy kỹ năng tự nương tựa với tinh thần chánh niệm, tỉnh thức, kỷ luật trong tu học, không nương tựa bên ngoài. Thực tập Tứ niệm xứ là sự nương tựa cao quý vào Chánh pháp.
27. Kinh Khởi thế nhân bổn (P. Aggañña Sutta, H. 起世因本經) tương đương Tiểu duyên kinh trong bộ Trường A-hàm.[22] Theo đức Phật, nguồn gốc sự sống không bắt đầu từ nguyên nhân khởi thủy là Thượng đế, vật chất hay tâm. Con người đầu tiên trên địa cầu chúng ta đang sống đến từ địa cầu khác. Khác với quan điểm Ấn giáo về xã hội giai cấp, đức Phật cho rằng con người chọn lựa nghề nghiệp, thể hiện quan điểm và cách sống của mình, tự tạo ra hạnh phúc hay khổ đau, giàu hay nghèo, cao hay thấp, quý hay tiện, không có định mệnh an bài. Lòng tham vô đáy của con người đã góp phần hủy hoại thiên nhiên.
28. Kinh Tự hoan hỷ (P. Sampasādanīya Sutta, H. 自歡喜經) tương đương bài kinh cùng tựa đề trong bộ Trường A-hàm.[23] Trước khi viên tịch tại Nāḷandā, Ngài Sāriputta đã tán dương giá trị Phật pháp, kêu gọi mọi người thực tập Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm năng lực, Bảy giác ngộ, Tám chánh đạo… nhằm kết thúc khổ đau, trải nghiệm an lạc ngay trong đời sống hiện tại.
29. Kinh Thanh tịnh (P. Pāsādika Sutta, H. 清淨經) tương đương bài kinh cùng tựa đề trong bộ Trường A-hàm.26 Nhân sự kiện tạ thế của Nigaṇṭha Nāṭaputta, lãnh tụ đạo Kỳ-na, đức Phật nhắc nhở các đệ tử cần sống có lý tưởng, đề cao tình huynh đệ và tinh thần hòa hợp, không tranh chấp, và để chứng Thánh quả, cần thực tập 37 yếu tố giác ngộ, đặc biệt tu bốn thiền và bốn chân lý Thánh. Các đệ tử nhiệt tâm truyền bá chân lý để Phật pháp soi sáng thế gian, giúp cuộc đời được an vui.
30. Kinh Tướng (P. Lakkhaṇa Sutta, H. 相經).[24] Chấp nhận văn hóa nhân tướng tại Ấn Độ cổ đại, đức Phật khẳng định rằng 32 tướng Đại nhân là kết quả của sự gieo trồng nhân tốt trong các kiếp quá khứ. Người có 32 tướng Đại nhân, nếu làm chính trị sẽ trở thành Chuyển Luân Thánh Vương, nếu xuất gia sẽ trở thành bậc Giác Ngộ Tối Thượng.
31. Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt (P. Siṅgālovāda Sutta, H. 教授尸迦羅越
經) tương đương Thiện Sanh kinh.[25] Giới thiệu 6 mối quan hệ xã hội. Về gia đình có: (i) Cha mẹ - con cái; (ii) Vợ - chồng; (iii) Bà con - thân quyến. Về giáo dục và nghề nghiệp có: (iv) Thầy cô giáo - học trò; (v) Chủ lao động - người lao động. Về tôn giáo có: (vi) Nhà tôn giáo - tín đồ. Mỗi bên được khuyên nên giữ gìn 5 trách nhiệm cao quý, góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình, xã hội và tâm linh.
32. Kinh A-sá-nang-chi (P. Āṭānāṭiya Sutta, H. 阿吒曩胝經).[26] Đức Phật dạy bốn Thiên Vương, dạ-xoa, càn-thát-bà, cưu-bàn-trà về giới pháp, gồm không giết hại, không trộm cắp, không nói láo, không uống rượu; kính trọng Phật pháp; truyền bá chân lý; giúp mọi người an vui.
33. Kinh Phúng tụng (P. Saṅgīti Sutta, H. 諷誦經) tương đương Chúng tập kinh.[27] Nhân dịp chứng minh lễ khánh thành giảng đường mới tại nước Mạt-la, đức Phật khích lệ Ngài Sāriputta trùng tuyên 229 pháp số quan trọng, bắt đầu từ 1 pháp đến 10 pháp, tóm tắt chân lý Phật dạy, nhắc nhở mọi người thực tập, kết thúc khổ đau.
34. Kinh Thập thượng (P. Dasuttara Sutta, H. 十上經) tương đương bài kinh cùng tựa đề trong bộ Trường A-hàm.[28] Đức Phật khích lệ Ngài Sāriputta giảng 100 pháp số quan trọng, bắt đầu bằng số 1 và kết thúc ở số 10. Mỗi con số có 10 pháp số khác nhau, tóm tắt các học thuyết và hành trì quan trọng của đức Phật.
Bản Kinh Trường bộ được in trong bộ Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam lần này được đánh số theo quy cách của Viện Nghiên cứu Thiền quán (Vipassana Research Institute) tại Ấn Độ, hay còn gọi là ấn bản của kỳ kết tập Tam tạng Thánh điển Pāli lần thứ sáu, nhằm hỗ trợ cho việc tra cứu bản nguồn Pāli và các bản dịch khác dễ dàng. Đồng thời, ngoài việc bổ túc một số cước chú do các dịch giả trong Hội Thánh điển Pāli chú thích, vốn đã được Hòa thượng Thích Minh Châu sử dụng, Ban Biên tập còn đối chiếu bản A-hàm thuộc Hán tạng, cung cấp thêm nguồn dẫn cho các nhà nghiên cứu Phật học và nhuận sắc một vài chỗ cần thiết. Chúng tôi hết sức cố gắng cho sự hoàn thiện ấn bản Kinh Trường bộ lần này, hầu mong đem lại lợi lạc, hiệu quả tốt nhất cho người học Phật.

 

TP. Hồ Chí Minh, ngày 12-9-2019
Thượng tọa THÍCH NHẬT TỪ
(Đồng Tổng Biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam)

 


[1] 梵動經 (T.01. 0001.21. 0088b12). Tham chiếu: Phạm võng lục thập nhị kiến kinh 梵網六十二見經 (T.01. 0021. 0264a20); Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm luận 舍利弗阿毘曇論 (T.28. 1548.19. 0656b19).

[2] 沙門果經 (T.01. 0001.27. 0107a20). Tham chiếu: Tịch chí quả kinh 寂志果經 (T.01. 0022. 0270c27); Tăng. 增 (T.02. 0125.43.7. 0762a07); Tạp. 雜 (T.02. 0099.154. 0043c21); Tạp. 雜 (T.02. 0099.155. 0044a01); Tạp. 雜 (T.02. 0099.156. 0044a11); Tạp. 雜 (T.02. 0099.157-160. 0044a22-b11); Tạp. 雜 (T.02. 0099.161. 0044b16); Tạp. 雜 (T.02. 0099.162. 0044b29); Tạp. 雜 (T.02. 0099.163. 0044c12); Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ-nại-da 根本說一切有部毘奈耶 (T.23. 1442.13. 0692b01).

[3] 阿摩晝經 (T.01. 0001.20. 0082a06). Tham chiếu: Phật khai giải Phạm chí A-bạt kinh 佛開解梵志阿颰經 (T.01. 0020. 0259c04).

[4] 種德經 (T.01. 0001.22. 0094a18).

[5] 究羅檀頭經 (T.01. 0001.23. 0096a16).

[6] 倮形梵志經 (T.01. 0001.25. 0102c25).

[7] 布吒婆楼經 (T.01. 0001.28. 0109c22). 8 堅固經 (T.01. 0001.24. 0101b14).

[8] 露遮經 (T.01. 0001.29. 0112c20).

[9] 三明經 (T.01. 0001.26. 0104c17).

[10] 大本經 (T.01. 0001.01. 0001b11). Tham chiếu: Phật thuyết Thất Phật kinh 佛說七佛經 (T.01. 0002. 0150a03); Tỳ-bà-thi Phật kinh 毘婆尸佛經 (T.01. 0003. 0154b05); Thất Phật phụ mẫu tánh tự kinh 七佛父母姓字經 (T.01. 0004. 0159a27); La-ma kinh 羅摩經 (T.01. 0026.204. 0775c07); Tăng. 增 (T.02. 0125.19.1. 0593a24); Tăng. 增 (T.02. 0125.48.4. 0790a07); Pháp tập yếu tụng kinh, Như Lai phẩm 法集要頌經如來品 (T.04. 0213.21. 0787b22).

[11] 大緣方便經 (T.01. 0001.13. 0060a29). Tham chiếu: Đại nhân kinh 大因經 (T.01. 0026.97. 0578b07); Phật thuyết Nhân bổn dục sanh kinh 佛說人本欲生經 (T.01. 0014. 0241c23); Phật thuyết Đại sanh nghĩa kinh 佛說大生義經 (T.01. 0052. 0844b09); A-tỳ-đạt-ma Tập dị môn túc luận 阿毘達磨集異門足論 (T.26. 1536.18. 0440c23).

[12] 遊行經 (T.01. 0001.02. 0011a07). Tham chiếu: Phật Bát-nê-hoàn kinh 佛般泥洹經 (T.01. 0005. 0160b05); Bát-nê-hoàn kinh 般泥洹經 (T.01. 0006. 0176a02); Đại Bát-niết-bàn kinh 大般涅槃經 (T.01. 0007. 0191b02); Địa động kinh 地動經 (T.01. 0026.36. 0477b23); Tăng. 增 (T.02. 0125.28.5. 0652b13); Tăng. 增 (T.02. 0125.42.5. 0753c11); Xuất diệu kinh, Thủy phẩm 出曜經水品 (T.04. 0212.18. 0706c07); Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ-nại-da tạp sự 根本說一切有部毘柰耶雜事 (T.24. 1451.35. 0382b29).

[13] Tham chiếu: Du hành kinh 遊行經 (T.01. 0001.02. 0011a07); Đại Thiện Kiến Vương kinh 大善見王經 (T.01. 0026.68. 0515b03); Phật Bát-nê-hoàn kinh 佛般泥洹經 (T.01. 0005. 0160b05); Bát-nê-hoàn kinh 般泥洹經 (T.01. 0006. 0176a02); Đại Bát-niết-bàn kinh 大般涅槃經 (T.01. 0007. 0191b02); Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ-nại-da tạp sự 根本說一切有部 毘柰耶 雜事 (T.24. 1451.37. 0393a01).

[14] 闍尼沙經 (T.01. 0001.04. 0034b05). Tham chiếu: Phật thuyết Nhân tiên kinh 佛說人仙經 (T.01. 0009. 0213c22).

[15] 典尊經 (T.01. 0001.03. 0030b10). Tham chiếu: Phật thuyết Đại Kiên Cố Bà-la-môn duyên khởi kinh 佛說大堅固婆羅門緣起經 (T.01. 0008. 0207c18).

[16] 大會經 (T.01. 0001.19. 0079b02). Tham chiếu: Phật thuyết Đại tam-ma-nhạ kinh 佛說大三摩惹經 (T.01. 0019. 0258a10); Tạp. 雜 (T.02. 0099.1192. 0323a12); Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.105. 0411a24).

[17] 釋提桓因問經 (T.01. 0001.14. 0062b29). Tham chiếu: Thích vấn kinh 釋問經 (T.01. 0026.134. 0632c27); Phật thuyết Đế-thích sở vấn kinh 佛說帝釋所問經 (T.01. 0015. 0246b03); Phật thuyết Đế-thích vấn sự duyên kinh 佛說帝釋問事緣經 thuộc Tạp Bảo tạng kinh 雜寶藏經 (T.04. 0203.73. 0476a17).

[18] 念處經 (T.01. 0026.98. 0582b07). Tham chiếu: Phân biệt Thánh đế kinh 分別聖諦經 (T.01. 0026.31. 0467a28); Niệm thân kinh 念身經 (T.01. 0026.81. 0554c10); Phật thuyết Tứ đế kinh 佛說四諦經 (T.01. 0032. 0814b08).

[19] 弊宿經 (T.01. 0001.07. 0042b24). Tham chiếu: Tỳ-tứ kinh 蜱肆經 (T.01. 0026.71. 0525a10); Đại Chánh Cú Vương kinh 大正句王經 (T.01. 0045. 0831a06). 21 阿㝹夷經 (T.01. 0001.15. 0066a09).

[20] 散陀那經 (T.01. 0001.08. 0047a17). Tham chiếu: Ưu-đàm-bà-la kinh 優曇婆邏經 (T.01. 0026.104. 0591b26); Phật thuyết Ni-câu-đà Phạm chí kinh 佛說尼拘陀梵志經 (T.01. 0011. 0222a19).

[21] 轉輪聖王修行經 (T.01. 0001.06. 0039a21). Tham chiếu: Chuyển Luân Vương kinh 轉輪王經 (T.01. 0026.70. 0520b16).

[22] 小緣經 (T.01. 0001.05. 0036b28). Tham chiếu: Bà-la-bà đường kinh 婆羅婆堂經 (T.01. 0026.154. 0673b04); Phật thuyết Bạch y kim tràng nhị Bà-la-môn duyên khởi kinh 佛說白衣金幢二婆羅門緣起經
(T.01. 0010. 0216b11).

[23] 自歡喜經 (T.01. 0001.18. 0076b24). Tham chiếu: Phật thuyết Tín Phật công đức kinh 佛說信佛功德經 (T.01. 0018. 0255a11); Tạp. 雜 (T.02. 0099.498. 0130c07). 26 清淨經 (T.01. 0001.17. 0072c12).

[24] Tham chiếu: Tam thập nhị tướng kinh 三十二相經 (T.01. 0026.59. 0493a24).

[25] 善生經 (T.01. 0001.16. 0070a20). Tham chiếu: Thiện Sanh kinh 善生經 (T.01. 0026.135. 0638c06); Phật thuyết Thi-ca-la-việt lục phương lễ kinh 佛說尸迦羅越六方禮經 (T.01. 0016. 0250c11); Thiện Sanh tử kinh 善生子經 (T.01. 0017. 0252b06).

[26] Tham chiếu: Tỳ-sa-môn Thiên Vương kinh 毘沙門天王經 (T.21. 1244. 0215a03); Phật thuyết Tỳ-sa-môn Thiên Vương kinh 佛說毘沙門天王經 (T.21. 1245. 0217a03).

[27] 眾集經 (T.01. 0001.09. 0049b27). Kinh này còn gọi là Đẳng tụng kinh 等誦經, Tăng-kỳ-đà kinh 僧祇陀
經. Tham chiếu: Thập thượng kinh 十上經 (T.01. 0001.10. 0052c17); Phật thuyết Đại tập pháp môn kinh 佛說大集法門經 (T.01. 0012. 0226c03); Tâm uế kinh 心穢經 (T.01. 0026.206. 0780b15); Tăng. 增 (T.02. 0125.37.1. 0708c11); Tăng. 增 (T.02. 0125.39.5. 0730c19); Tăng. 增 (T.02. 0125.44.1. 0764c20); Tăng. 增 (T.02. 0125.51.4. 0817a16).

[28] 十上經 (T.01. 0001.10. 0052c17). Tham chiếu: Chúng tập kinh 眾集經 (T.01. 0001.9. 0049b27); Tăng nhất kinh 增一經 (T.01. 0001.11. 0057b26); Phật thuyết Đại tập pháp môn kinh 佛說大集法門經 (T.01. 0012. 0226c03); Trường A-hàm thập báo pháp kinh 長阿含十報法經 (T.01. 0013. 0233b23); Tâm uế kinh 心穢經 (T.01. 0026.206. 0780b15); Tăng. 增 (T.02. 0125.37.5. 0712a09); Tăng. 增 (T.02. 0125.39.5. 0730c19); Tăng. 增 (T.02. 0125.51.4. 0817a16).

Đại Tạng Kinh Việt Nam

Tháng Năm