Tuyển tập Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaàya) lưu một bài kinh có tên là Kẻ lọc vàng, ghi lại những lời Đức Phật dạy về kinh nghiệm tu Thiền hay thực tập nội tâm tịnh chỉ (samatha), rất căn bản và bổ ích cho những ai muốn tu tập Tăng thượng tâm (Adhicitta-bhavanà) hay hành trì Thiền định theo lời Phật dạy.
Bài kinh dùng hình ảnh một người thợ kim hoàn cần mẫn và khéo léo trong các khâu đãi lọc và nung nấu quặng vàng, nhờ đó có được loại vàng nhu nhuyến tinh luyện, có thể làm ra các vật trang sức tốt đẹp như ý muốn, để minh họa việc một người tu Thiền kiên trì thực tập đúng pháp thì sẽ có được nội tâm tịch tịnh, có thể hướng tâm đến pháp nào cần thắng tri và cần chứng ngộ như ý muốn. Cái tâm của chúng sinh vốn thanh tịnh nhưng bị tập khí tham-sân-si đeo bám lâu ngày thành ra ô nhiễm và mê mờ, giống như quặng vàng mới lấy lên từ hầm mỏ còn bám đầy đất cát, cần phải tập trung tẩy rửa và tinh luyện đúng cách thì mới sạch các cấu uế, mới trở nên thanh tịnh và sáng suốt.
Nguyên văn lời Phật dạy:
“Này các Tỳ-kheo, có những uế nhiễm thô tạp của vàng như bụi, cát, đá, sạn và đá sỏi. Người đãi lọc bụi hay đệ tử của người đãi lọc bụi đem đổ vào trong cái máng, rồi rửa sạch qua rửa sạch lại, rửa sạch thêm nữa.
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, còn lại các uế nhiễm bậc trung của vàng, như cát đá, sạn tế nhị và các hột cát thô tạp. Người đãi lọc bụi hay đệ tử người đãi lọc bụi rửa sạch, rửa sạch thêm nữa, rửa sạch hoàn toàn.
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, còn lại các uế nhiễm tế nhị, như cát mịn và cát bụi đen. Người đãi lọc bụi, hay đệ tử người đãi lọc bụi lại rửa sạch nữa, rửa sạch thêm nữa, rửa sạch hoàn toàn.
Làm xong như vậy, làm như vậy hoàn tất, chỉ còn lại bụi vàng.
Rồi người thợ vàng hay đệ tử người thợ vàng bỏ bụi vàng ấy vào trong cái lò, rồi thụt ống bệ, thụt ống bệ thêm, thụt ống bệ cho đến khi vàng bắt đầu chảy, nhưng không chảy ra khỏi miệng lò. Vàng ấy được thụt bệ, được thụt bệ thêm nữa, được thụt bệ hơn nữa, nhưng không chảy ra khỏi miệng lò, chưa được làm xong, chưa sạch các uế nhiễm, chưa có nhu nhuyến, chưa có kham nhậm, chưa có sáng chói. Vàng ấy còn có thể bể vụn và chưa có thể được tác thành tốt đẹp.
Có một thời, này các Tỳ-kheo, người thợ vàng ấy hay đệ tử người thợ vàng ấy lại thụt bệ, thụt bệ thêm nữa, thụt bệ hơn nữa, cho đến khi vàng chảy ra khỏi lò. Vàng ấy được thụt bệ, được thụt bệ thêm nữa, được thụt bệ hơn nữa, cho đến khi vàng chảy ra khỏi lò, được làm xong, được sạch các uế nhiễm, được nhu nhuyến, được kham nhậm và được chói sáng. Vàng ấy không bị bể vụn, và có thể được tác thành tốt đẹp. Và loại trang sức nào người ấy muốn, như vàng lá, hay nhẫn, hay vòng cổ, hay dây chuyền, người ấy có thể làm thành như ý muốn.
Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo tu tập tăng thượng tâm, còn tồn tại các kiết sử thô tạp, thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành. Tỳ-kheo có tư lự, có thông minh, từ bỏ, gột sạch, chấm dứt, không cho sanh khởi lại.
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, Tỳ-kheo tu tập tăng thượng tâm, còn tồn tại các kiết sử thuộc bậc trung, dục tầm, sân tầm, hại tầm. Tỳ-kheo có tư lự, có thông minh, từ bỏ, gột sạch, chấm dứt, không cho chúng sanh khởi.
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, Tỳ-kheo tu tập tăng thượng tâm, còn tồn tại các kiết sử tế nhị, như tư tưởng về gia tộc, tư tưởng về quốc độ, tư tưởng không bị khinh rẻ. Tỳ-kheo có tư lự, có thông minh, từ bỏ, gột sạch, chấm dứt, không cho chúng sanh khởi.
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, chỉ còn lại các pháp tầm (tư tưởng về pháp).
Định như vậy không có an tịnh, không có thù thắng, không được khinh an, không đạt đến nhất tâm, nhưng là một trạng thái chế ngự thường xuyên dằn ép. Nhưng đến một thời, này các Tỳ-kheo, tâm của vị ấy được nội trú, lắng đứng lại, được nhứt tâm, được định tĩnh. Định ấy được an tịnh, được thù diệu, được khinh an, đạt đến nhứt tâm, không phải một trạng thái chế ngự thường xuyên dằn ép, tùy thuộc theo pháp gì tâm vị ấy hướng đến để thắng tri, để chứng ngộ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
Nếu vị ấy ước muốn: ‘Ta sẽ chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình biến hình, đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi ngang hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền, ngồi kiết-già đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên’; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
Nếu vị ấy ước muốn: ‘Với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng chư Thiên và loài Người’; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
Nếu vị ấy ước muốn: ‘Mong rằng với tâm của mình có thể biết được tâm của các loại chúng sanh khác, tâm của các người khác như sau: Tâm có tham biết là tâm có tham. Tâm không tham biết là tâm không tham. Tâm có sân biết là tâm có sân. Tâm không sân biết là tâm không sân. Tâm có si biết là tâm có si. Tâm không si biết là tâm không si. Tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú. Tâm tán loạn biết là tâm tán loạn. Đại hành tâm biết là đại hành tâm. Không phải đại hành tâm biết không phải là đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng biết là tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng biết là tâm vô thượng. Tâm Thiền định biết là tâm Thiền định. Tâm không Thiền định biết là tâm không Thiền định. Tâm giải thoát biết là tâm giải thoát. Tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát’; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
Nếu vị ấy ước muốn: ‘Ta sẽ nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp; vị ấy nhớ rằng: Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh tại đây’; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
Nếu vị ấy ước muốn: ‘Với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, ta thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Các chúng sanh nào làm những ác nghiệp về thân, ngữ và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến; những chúng sanh này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục, đọa xứ. Các chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, ngữ và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến; những vị này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này. Như vậy, với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân ta có thể thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta có thể biết rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ’; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
Nếu vị ấy ước muốn: ‘Do đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong hiện tại, với thắng trí, ta chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát’; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào”[1].
Bài kinh có nhiều gợi ý và chỉ dẫn rất căn bản và bổ ích cho người hành Thiền. Trước hết, người học và tu Thiền cần có thái độ cần mẫn trong mỗi bước tu tập đưa đến định tâm; giống như người thợ kim hoàn cần mẫn trong các khâu đãi lọc và nung nấu quặng vàng để cuối cùng lấy cho được loại vàng tinh luyện, có thể làm ra các sản phẩm như ý muốn.
Nói đến Thiền tức là nói đến tâm, nói đến sự huấn luyện tâm, chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, an trú tâm, phát triển tâm hay cách thức làm cho tâm an tịnh và trong sáng, đưa đến hiểu biết sáng suốt, đạt đến trí tuệ đoạn trừ các lậu hoặc, đắc quả giải thoát. Đó là cả một lộ trình tu tập bền bỉ và lâu dài bao gồm sự phát triển của nhiều yếu tố tự nội như tín tâm, giới đức, sự nhiệt tâm, cần mẫn, sự điều hòa, quân bình, sự thoải mái, thanh thản, sự định tĩnh, nhất tâm, sự tịch tịnh, sáng suốt, sự buông xả, giải thoát. Nói cách khác, đó là một quá trình nỗ lực làm trong sạch và trong sáng nội tâm, khiến cho tâm được tu tập, được chuyển hóa, được phát triển, trở thành thanh tịnh, nhu nhuyến, thuần thục, có thể vận dụng tâm ấy để quán sát bản chất duyên sinh, vô thường, khổ, vô ngã của các pháp, đạt đến sự thấy biết như thật, hướng đến ly tham, giải thoát, gọi là hướng tâm đến các pháp nào cần thắng tri và cần chứng ngộ như ý muốn.
Theo lời Phật thì để hành Thiền hay tu tập Tăng thượng tâm có kết quả, hành giả cần phải từng bước nỗ lực dứt trừ các kiết sử (samyojanàni) từ thô đến tế, tức các pháp bất thiện ở bên ngoài và ở bên trong, có công năng trói buộc chúng sinh trong vòng sanh tử luần hồi, không để cho chúng sanh khởi làm hoen ố và che mờ tâm thức.
Trước hết, hành giả cần phải dứt trừ các nghiệp bất thiện thuộc thân, khẩu, ý (sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận, tà kiến). Sự tu tập này gợi tưởng ý rằng giới đức (sìla) hay nếp sống đạo đức hiền thiện đóng vai trò quan trọng trong pháp môn hành Thiền hay phát triển tâm thức; muốn có được nội tâm trong sáng và lành mạnh thì con người cần phải có đời sống trong sáng và lành mạnh, thể hiện qua việc nỗ lực dứt trừ mười ác nghiệp. Đây là hướng đi căn bản, hết sức tự nhiên, cho sự phát triển các phẩm chất tự nội, nghĩa là định tâm và trí tuệ được sinh khởi và phát triển trên cơ sở giới đức hay lối sống đạo đức hiền thiện.
Tiếp theo, vị hành giả tập trung làm trong sạch nội tâm thông qua việc chú tâm nhận diện tâm thức của mình có cấu uế hay không để nỗ lực trừ bỏ. Các cấu uế ở đây chỉ cho các kiết sử bậc trung, tức các ý tưởng bất thiện liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si, gọi là dục tầm (kamavittaka), sân tầm (patighavittaka) và hại tầm (vihimsavittaka). Dục tầm tức là những ý nghĩ hay suy tư gắn liền với tham dục, liên hệ đến lòng tham, bị dục vọng chi phối và dẫn dắt. Sân tầm là các ý tưởng hay suy nghĩ gắn liền với bực phiền giận dữ, liên hệ đến sân tâm, bị sân hận chi phối và ngự trị. Hại tầm nghĩa là những ý tưởng hay tư duy gắn liền với tà kiến, liên hệ đến mê lầm, bị tà kiến chi phối và kích động. Sự tu tập này cốt yếu làm giảm thiểu và muội lược các tập khí tham-sân-si tiềm ẩn trong nội tâm, khiến cho tâm dần dần trở nên trong lắng, bớt quay cuồng, bớt dao động, dễ dàng đi đến định tĩnh, nhất tâm. Đây là bước tu tập gian khó, cần phải kiên trì thực tập nhiều lần và đúng cách mới có kết quả. Kinh Pháp Cú nói rằng tâm khó thấy, tế nhị[2], khó nắm giữ, khinh động, theo các dục quay cuồng[3], khó hộ trì, khó nhiếp phục[4]; lành thay điều phục tâm, tâm điều an lạc đến[5].
Cách thức tu tập tăng thượng tâm hay kinh nghiệm nhiếp phục dục tầm, sân tầm, hại tầm được nói đến trong các bàn kinh Song tầm và An trú tầm thuộc tuyển tập Trung Bộ. Kinh An trú tầm nêu rõ năm cách dứt trừ các cấu uế nội tâm hay làm cho vắng bặt các tư tưởng bất thiện đưa đến tâm tịnh chỉ:
1. Tác ý đến một vấn đề hiền thiện nhằm xua đuổi các ý tưởng bất thiện.
2. Nghĩ đến sự nguy hiểm của các tư tưởng bất thiện để sinh tâm sợ hãi mà từ bỏ.
3. Loại bỏ hay cắt đứt dòng suy nghĩ bất thiện.
4. Điều chỉnh hướng vận hành (tác ý đến hành tướng và sự an trú) của các tư tưởng bất thiện cho đến lúc im lắng.
5. Nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm bất thiện.
Làm sạch các ý tưởng hay suy nghĩ bất thiện liên hệ đến tham-sân-si gọi là dục tầm, sân tầm và hại tầm rồi thì bước tiếp theo là tập buông bỏ các tư tưởng tế nhị gắn liền với ý niệm “tôi” và “của tôi”, như ý tưởng về gia tộc, về chủ nghĩa quốc gia, về tự ngã. Đây gọi là sự thanh lọc các kiết sử vi tế thuộc kiến mạn tùy miên (attaditthimànànusaya), tức các ý niệm liên hệ đến ngã và ngã sở. Sự tu tập này cốt yếu làm tịch chỉ các ý niệm mê lầm về “tôi” và “của tôi”, không để cho chúng dấy khởi làm dao động và mê hoặc tâm thức.
Trên đây là các bước tu tập chế ngự thân, chế ngự lời, chế ngự ý, cốt yếu làm trong sạch các hành vi thuộc thân, miệng, ý, giúp cho tâm thoát khỏi tình trạng quay cuồng và dao động do tác động của các hành vi mê lầm bất thiện thuộc thân, khẩu, ý, khiến cho tâm dần dần trở nên trong sáng, an tịnh, lắng sạch các cấu uế, các kiết sử. Đây gọi là các bước tu tập đưa đến định tâm, cơ bản là sự giữ giới và vận dụng tầm (vittaka) và tứ (vicàra) để nhiếp phục và đối trị các hành vi bất thiện làm cấu uế và rối loạn tâm thức, giúp cho tâm dần dần đạt đến chuyên chú và định tĩnh.
Với kinh nghiệm của mình, Đức Phật gọi các bước tu tập trên là điều kiện đưa đến định cận hành (upacàra), tức trạng thái định tĩnh sơ khởi của tâm thức đạt được nhờ thường xuyên chế ngự và dằn ép các bất thiện tầm (năm triền cái). Mặc dù chưa được xem là đắc định thật sự nhưng các bước tu luyện như vậy là căn bản và cần thiết, cần phải kiên trì thực tập nhiều lần để tâm đạt đến sự huyấn luyện thuần thục và để đắc định.
Bậc Giác ngộ xác nhận:
“Định như vậy không có an tịnh, không có thù thắng, không được khinh an, không đạt đến nhất tâm, nhưng là một trạng thái chế ngự thường xuyên dằn ép. Nhưng đến một thời, này các Tỳ-kheo, tâm của vị ấy được nội trú, lắng đứng lại, được nhứt tâm, được định tĩnh. Định ấy được an tịnh, được thù diệu, được khinh an, đạt đến nhứt tâm, không phải một trạng thái chế ngự thường xuyên dằn ép, tùy thuộc theo pháp gì tâm vị ấy hướng đến để thắng tri, để chứng ngộ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào”.
Lời xác chứng của Đức Phật về diễn tiến của tâm thức đạt đến đại định, nghĩa là chứng và trú các cấp độ định tâm từ Thiền thứ nhất đến Thiền thứ tư, gợi cho hành giả tu Thiền nhiều kinh nghiệm bổ ích.
Định được nói ở đây là trạng thái nhất tâm (ekaggata) đạt được nhờ chế ngự thân, chế ngự lời, chế ngự ý, sự gột bỏ các ý tưởng bất thiện liên hệ đến tham-sân-si tức dục tầm, sân tầm, hại tầm, sự buông bỏ các tập quán suy nghĩ mê lầm gắn liền với ý niệm “tôi” và “của tôi”. Nhờ chuyên cần thực tập uốn nắn tự thân theo trình tự như vậy mà hành giả dần dần có được nội tâm trong sáng và an tịnh, thực nghiệm các trạng thái Thiền sâu lắng gọi là chứng đắc các tầng Thiền, gồm Thiền thứ nhất với “hỷ lạc do ly dục sanh”, Thiền thứ hai với “hỷ lạc do định sanh”, Thiền thứ ba với “xả niệm lạc trú” và Thiền thứ tư với “xả niệm thanh tịnh”, tâm thức trở nên hoàn toàn thanh tịnh, đạt đến định tĩnh, nhất tâm. Ở đây, hành giả cần tiếp tục công phu hành Thiền để tâm thức đi đến thuần thục và có nhiều kinh nghiệm, trở nên nhu nhuyến và thiện xảo trong khả năng hoạt dụng gọi là “đến một thời, tâm của vị ấy được nội trú, lắng đứng lại, được nhứt tâm, được định tĩnh... tùy thuộc theo pháp gì tâm vị ấy hướng đến để thắng tri, để chứng ngộ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào”.
Kinh văn truyền thống nói đến việc tâm khéo tu tập (supatipanna/subhàvita) có khả năng đưa đến giải thoát các lậu hoặc. Khéo tu tập ở đây chỉ cho công phu tu tập, thực tập và hành tập nhiều lần các Thiền sắc giới, khiến cho tâm thuần thục và sắc bén trong các giới xứ, trở nên nhu nhuyến, dễ sử dụng, đạt đến tinh luyện về kinh nghiệm giải thoát.
Các bản kinh Pàli thường nhấn mạnh tiến trình đoạn trừ các lậu hoặc, đắc quả giải thoát, khởi từ tâm được khéo tu tập ở Thiền thứ tư:
“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh... vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Trí tuệ về sanh tử của chúng sanh... vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: ‘Đây là Khổ’, biết như thật: ‘Đây là Nguyên nhân của khổ’, biết như thật: ‘Đây là sự Khổ diệt’, biết như thật: ‘Đây là Con đường đưa đến khổ diệt’, biết như thật: ‘Đây là những lậu hoặc’, biết như thật: ‘Đây là nguyên nhân của lậu hoặc’, biết như thật: ‘Đây là các lậu hoặc diệt’, biết như thật: ‘Đây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt’. Nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: ‘Ta đã giải thoát’. Vị ấy biết: ‘Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không có trở lui đời sống này nữa’”.
Nhìn chung, pháp môn tu Thiền hay hành Thiền được đề cập trong kinh tạng Pàli là rất rõ ràng và cụ thể. Đó là nếp sống trong sáng và lành mạnh đưa đến tâm giải thoát, tuệ giải thoát, nhờ thực hành đầy đủ tiến trình Giới-Định-Tuệ. Đó là sự chế ngự thân, chế ngự lời, chế ngự ý, sự nhiếp phục và dứt trừ các ý nghĩ và tư tưởng bất thiện, sự buông bỏ các ý niệm mê lầm liên hệ đến ngã và ngã sở, sự thành tựu các trạng thái định tâm, sự hướng tâm thắng tri các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, sự thành tựu trí tuệ đưa đến đoạn tận dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, sự chứng đắc tâm giải thoát và tuệ giải thoát, sự chấm dứt sinh tử luân hồi.
Chú thích:
1. Kinh Kẻ lọc vàng, Tăng Chi Bộ.
2. Kinh Pháp Cú, kệ số 36.
3. Kinh Pháp Cú, kệ số 35.
4. Kinh Pháp Cú, kệ số 33.
5. Kinh Pháp Cú, kệ số 36.
Theo Văn hoá Phật giáo số 262 ngày 01-12-2016