Thiền Đại thừa và Tối thượng thừa
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
Mục lục
- 10 - Thư mời viết bài hội thảo khoa học: Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền với Hội Phật học Nam Việt
- 11 - Thư mời viết bài tham luận cho Vesak 2019
- 12 - Thư mời viết bài hội thảo khoa học: Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám và Hội An Nam Phật học
- 13 - Ảnh hưởng của phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam(1920) đến việc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam(1981)
- 14 - Tỷ-kheo phải biết xông khói
- 15 - Nhân minh học là khoa học của mọi luận lý
- 16 - Thư mời HỘI THẢO KHOA HỌC "Phật giáo Cổ truyền Việt Nam và sự đóng góp cho Đạo Pháp và Dân Tộc"
- 17 - Đạo Phật và trí thức
- 18 - Sách nói : Kinh Trường Bộ
- 19 - Ra mắt nhân sự Viện nghiên cứu Phật học VN NK 2007- 2012
- 20 - Cơ cấu nhân sự Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 21 - Ra mắt nhân sự Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 22 - Viện Nghiên cứu Phật học VN tổng kết năm 2014
- 23 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổ chức lễ tổng kết Phật sự 2015 và phương hướng hoạt động 2016
- 24 - Buổi họp Ban thường trực Hội đồng Quản trị Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 25 - BTS Phật giáo TP.HCM làm lễ Tự tứ mãn hạ
- 26 - Viện Nghiên Cứu Phật Học VN họp chỉnh sửa bổ sung cho quy chế nhiệm kỳ 8 (2017-2022)
- 27 - Viện Nghiên cứu Phật học VN thăm viếng chư tôn đức dịch giả
- 28 - Sẽ nỗ lực hoàn thành Bộ Đại tạng kinh Việt Nam
- 29 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam họp phiên đầu tiên của nhiệm kỳ mới
- 30 - Gần 450 nhân sự tham gia Viện Nghiên cứu Phật học VN
- 31 - Khởi động việc ấn hành Đại tạng kinh Phật giáo VN
- 32 - HỌC CÁCH ĐỐI DIỆN VỚI SỢ HÃI
- 33 - Con người phụ thuộc vào tự nhiên và có sự tác động lẫn nhau
- 34 - Nguồn gốc Phật giáo
- 35 - Phiên âm Đại Tạng Kinh
- 36 - Góp chút công sức cho Đại tạng kinh Việt Nam
- 37 - Góp phần đề nghị một đề cương biên dịch cho Đại tạng kinh Việt Nam
- 38 - Học và tu
- 39 - Viện Nghiên cứu Phật học VN có Ban Vận động tài chánh
- 40 - Hoạt động của Ban Phiên dịch Phật học Anh - Việt
- 41 - Lễ tổng kết của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, nhiệm kỳ 2012-2017
- 42 - Tôn giáo và Đạo đức
- 43 - Khai phát Trí tuệ nhìn từ tư tưởng Kinh Duy Ma Cật
- 44 - Thủ tướng chủ trì họp về công tác tổ chức Đại lễ Vesak 2019
- 45 - Chuẩn bị cho Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 46 - Phỏng vấn Hoà thượng Chủ tịch ICDV về Vesak 2019
- 47 - TP.HCM:Họp Ủy ban Quốc gia Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 48 - VIDEO: Việt Nam đăng cai lần thứ 3 Đại lễ Vesak LHQ
- 49 - Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội triển khai công tác Phật sự năm 2019
- 50 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (1)
- 51 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (2)
- 52 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (3)
- 53 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (4)
- 54 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (5)
- 55 - Thân người khó được, Phật pháp khó nghe
- 56 - Nếp sống đạo đức, lành mạnh của người Phật tử
- 57 - Suy nghĩ đôi điều về sự cầu siêu và cúng thí thực
- 58 - Chữ Tâm trong đạo Phật
- 59 - Phật giáo mô tả về Vũ trụ như thế nào? (1)
- 60 - Phật giáo mô tả về Vũ trụ như thế nào? (2)
- 61 - Để tâm Vô trụ khi làm từ thiện
- 62 - Tính chất giáo dục của Giới luật Phật giáo
- 63 - Ý thức về Tội lỗi
- 64 - Điều quan yếu của đời sống
- 65 - Hiểu rõ hơn về Nghiệp
- 66 - Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Cảnh (1937-2018)
- 67 - Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Sam (1929 - 2018)
- 68 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Đức Chơn(1932-2017)
- 69 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Chơn Kim (1930 - 2017)
- 70 - Sơ Lược Tiểu Sử Hòa thượng Thích Trí Tịnh
- 71 - Tiểu Sử Đại Lão Hòa thượng Thích Đổng Quán(1925-2009)
- 72 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Bửu Chung (1881-1947)
- 73 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Huệ Quang (1888 - 1956)
- 74 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Khánh Anh
- 75 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Hoàng Từ
- 76 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Nhật Liên
- 77 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Thiện Hoa (1918 - 1973) Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN
- 78 - Sơ Lược Tiểu Sử Hòa thượng Thích Quảng Tâm
- 79 - Tiểu Sử cố Đại Lão Hòa thượng Thích Bảo An
- 80 - Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ
- 81 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Bửu Phước (1880-1948)
- 82 - Tiểu sử trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu (1918 - 2012)
- 83 - Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Từ Nhơn (1926 - 2013)
- 84 - Tìm hiểu giáo nghĩa Tịnh độ Chân tông Nhật Bản
- 85 - Không đắm nhiễm thì sống vui
- 86 - Cõi âm có hay không? Nhận thức của Phật giáo đối với vấn đề này
- 87 - Kinh Tương Ưng Bộ - HT Thích Minh Châu dịch Việt
- 88 - Kinh Trường Bộ 1 - HT Thích Minh Châu dịch Việt
- 89 - Nhân sự Ban in ấn và phát hành nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 90 - Nhân sự Ban Tài chính nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 91 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 92 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Phật học Hán truyền nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 93 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Văn học Phật giáo nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 94 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Thiền học Nam Truyền nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 95 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Thiền học Bắc Truyền nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 96 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Nữ giới Phật giáo nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 97 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 98 - Nhân sự Trung tâm Phiên dịch Anh - Việt Phật học nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 99 - Nhân sự Phân viện Nghiên cứu Phật giáo Nam Tông nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 100 - Nhân sự Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 101 - Quan điểm về Theravāda và Mahāyāna của Phật Hoàng Trần Nhân Tông
- 102 - Tìm hiểu ý nghĩa câu kệ Sùng Nghiêm của Trần Nhân Tông
- 103 - Mục tiêu của đạo Phật là gì?
- 104 - Khởi nguyên Thiền Học Việt Nam
- 105 - Phật hoàng Trần Nhân Tông và những giá trị siêu việt
- 106 - Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng (P.1)
- 107 - Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng (P.2)
- 108 - Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng (P.3)
- 109 - Lợi ích của pháp tu lạy Phật
- 110 - Tại sao nhiều người mê cõi Tây phương Cực lạc?
- 111 - Đức Phật có phủ nhận việc cầu nguyện?
- 112 - Bốn pháp mang đến an lạc đời sau cho người cư sĩ
- 113 - Ba căn lành chẳng thể cùng tận
- 114 - Cầu nguyện có được kết quả như ý không?
- 115 - Vì người tạo ác nghiệp, chính mình phải chịu tội
- 116 - Phật dạy 20 điều khó
- 117 - Biết sống vô thường (P.1)
- 118 - Biết sống vô thường (P.2)
- 119 - Biết sống vô thường (P.3)
- 120 - Biết sống vô thường (Phần cuối)
- 121 - 7 thứ gia tài bậc Thánh
- 122 - Cầu nguyện là chánh tín hay mê tín?
- 123 - Để việc phóng sinh thể hiện lòng từ bi đúng nghĩa
- 124 - Tự vấn về Pháp môn Tịnh độ
- 125 - Ý nghĩa tụng kinh Dược Sư và niệm Phật Dược Sư
- 126 - Pháp trợ niệm của Đức Phật
- 127 - Làm sao vui với chuyện thị phi?
- 128 - Đại lễ Vesak 2019: Sự kiện đối ngoại nhân dân
- 129 - Người gánh phân nghèo hèn và bài học Tâm không phân biệt của Đức Phật
- 130 - Bản ý của Tịnh độ tông
- 131 - Ba điều căn bản của người tu Phật
- 132 - Năm pháp khiến Chánh pháp không diệt ở thời Mạt pháp
- 133 - Về niên đại Hán dịch của kinh Na Tiên Tỳ-kheo
- 134 - Vua Trần Nhân Tông và tinh thần "Bụt ở trong nhà"
- 135 - Bản chất thời gian với ý nghĩa giải thoát của đạo Phật
- 136 - Đạo Phật bi quan hay lạc quan?
- 137 - Cực Lạc và Luân Hồi: Bất Nhị trong Tịnh Độ Tông
- 138 - Nguyễn Du và Phân Kinh Thạch Đài
- 139 - Cận cảnh ngôi chùa đăng cai đại lễ Vesak 2019 và khối Thiên thạch Mặt Trăng 600.000 USD
- 140 - Họp Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 141 - Pali - Việt đối chiếu
- 142 - Từ điển Bách khoa Phật giáo Việt Nam
- 143 - Từ điển Pháp số Tam Tạng
- 144 - Từ điển Hư Từ
- 145 - Từ điển Hán Phạn - Buddhist Chinese-Sanskrit
- 146 - Phật Quang Đại Từ điển
- 147 - Từ điển Thiền tông Hán - Việt
- 148 - Hạnh phúc là gì, mà ai cũng phải đi tìm?
- 149 - Tiếp tục đôn đốc, chuẩn bị cho Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 150 - Nghiên cứu về trải nghiệm cận tử thông qua thiền định
- 151 - Tiêu giải nghiệp chướng theo lời Phật dạy
- 152 - 7 điều suy ngẫm từ Đạt Lai Lạt Ma có thể thay đổi cuộc đời của bạn
- 153 - Ba bài học sâu sắc từ Phật giáo để có được sự an lạc giữa cuộc sống bộn bề
- 154 - Thiền sư Khương Tăng Hội: Sơ tổ của Thiền tông Việt Nam
- 155 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổng kết 6 tháng cuối năm 2018 và triển khai hoạt động năm 2019
- 156 - Hội nghị trù bị lần 2 Đại lễ Vesak 2019 tại Việt Nam
- 157 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đảnh lễ Hoà thượng Thiền sư Thích Thanh Từ
- 158 - Đại lễ Phật đản Vesak 2019 có gì đặc biệt?
- 159 - Bốn pháp thu phục lòng người
- 160 - Tổng hợp những lời dạy của Đức Phật hay và ý nghĩa
- 161 - Vô ngã vị tha - cách nhìn Phật giáo về công bằng xã hội
- 162 - Vô minh trong Phật giáo có ý nghĩa gì?
- 163 - 7 việc Phật dạy không đáng “hy sinh” trong đời
- 164 - Nuôi dưỡng lòng từ bi trong cuộc sống với 7 bước luyện tập
- 165 - Những câu nói truyền cảm hứng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 166 - Làm thế nào để có một đời sống đạo đức?
- 167 - Lắng nghe 108 lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma
- 168 - Khiêm tốn là phẩm đức của bậc đại trí
- 169 - Thiền sư Vạn Hạnh và tinh thần Phật giáo đồng hành cùng dân tộc
- 170 - Thiền sư Thường Chiếu – Người có công giao nhập 3 dòng Thiền phái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XIII
- 171 - Tại sao Thiền sư Thường Chiếu dám 'cãi' về Tổ Bồ Đề Đạt Ma?
- 172 - Phật dạy làm người quan trọng nhất là phải có lương thiện
- 173 - Đức Phật là người hạnh phúc!
- 174 - Ý nghĩa cầu nguyện trong đạo Phật
- 175 - Pháp lạc trong tu học
- 176 - Mê và giác
- 177 - Quán vô thường để chứng đạt vô ngã
- 178 - Lời Phật dạy: Sống vị tha là một trong những phép tắc đạo đức cao quý nhất!
- 179 - Lời Phật dạy dành cho những người hay phiền muộn
- 180 - Vì sao hạnh phúc không thể tách rời lòng vị tha?
- 181 - Video giới thiệu Đại lễ Phật Đản Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 182 - Lời Phật dạy về cách tạo dựng phúc đức cho sinh mệnh con người
- 183 - 3 bí ẩn diệu kỳ của thiền định
- 184 - Phật dạy cách buông bỏ mọi phiền não
- 185 - Những nét chính về cuộc đời Hòa thượng Tuyên Hóa
- 186 - Ban Văn hóa T.Ư họp bàn việc phục vụ Vesak 2019
- 187 - 6 chân lí của hạnh phúc từ lời Phật dạy
- 188 - 17 lời khuyên sâu sắc về cuộc sống từ Thiền sư Kodo Sawaki
- 189 - 50 chân lý bất biến của cuộc đời
- 190 - Phật dạy: Hết củi thì lửa tắt
- 191 - Hai thứ tự do
- 192 - Câu chuyện Đức Phật và 3 người đàn ông cùng bài học xương máu
- 193 - Trầm cảm dưới góc nhìn Phật giáo, ngồi Thiền chữa trầm cảm theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 194 - Nghĩ về Đại lễ Liên Hiệp Quốc Vesak 2019 từ những tách trà nóng kỷ niệm
- 195 - An ninh trật tự phục vụ Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019 đã sẵn sàng!
- 196 - Giáo hội Phật giáo Việt Nam triển khai công tác tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 197 - Giới đức nặng hơn đất, mạn cao hơn trời, hồi tưởng nhanh hơn gió và tư tưởng nhiều hơn cỏ!
- 198 - Quán chiếu tâm và đoạn ác tâm để làm sinh thiện tâm
- 199 - Sự ra đi bí ẩn của Tổ sư Hệ phái Khất sĩ Việt Nam Minh Đăng Quang 65 năm trước
- 200 - Cách tiếp cận của con người đối với hoà bình thế giới
- 201 - Thiền sư Khương Tăng Hội sinh ra trên đất Việt, truyền Phật giáo từ Giao Chỉ tới Đông Ngô
- 202 - Chuyển hóa sân hận bằng 5 phương cách theo lời đức Phật dạy!
- 203 - Tuyên Quang triển khai kế hoạch Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019
- 204 - Thiền sư Pháp Đảnh (Hàn Quốc): Đệ Nhất Trì luật-Đạo hạnh sáng ngời
- 205 - Tìm hiểu Thiền Quán tử thi - phép tu mạnh mẽ để nhận thức vô ngã tại Thái Lan
- 206 - Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019: Tôn vinh giá trị nhân văn, hòa bình
- 207 - Lời giảng vi diệu của Đức Phật về thuật Lãnh đạo
- 208 - Ý nghĩa đời sống
- 209 - Lịch trình dự kiến của Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019
- 210 - Lời Phật dạy sâu sắc về lòng hiếu thảo đối với cha mẹ
- 211 - Vì sao vua Lý Thánh Tông đã từng nổi giận đốt chùa rồi lại sám hối xây chùa
- 212 - Phép Hỏa quang tam muội của hai Thiền sư Việt
- 213 - Trút bỏ phiền ưu theo lời Phật dạy
- 214 - Công tác Tình nguyện viên phục vụ Đại lễ Vesak Liên hiệp quốc 2019
- 215 - Vì sao người Phật tử nên ăn chay?
- 216 - Tham lam là liều thuốc độc!
- 217 - Sống hạnh phúc theo lời Phật dạy
- 218 - Cơ sở 2 bệnh viện Bạch Mai ở Hà Nam sẽ phục vụ tốt cho Vesak 2019
- 219 - Công an Hà Nam triển khai kế hoạch giữ trật tự ATGT phục vụ Đại lễ Vesak 2019
- 220 - Nghiệp và Giải nghiệp theo Chánh pháp
- 221 - Các ban chuyên môn họp đúc kết công tác chuẩn bị cho Đại lễ Vesak 2019
- 222 - Phương thuốc của lòng vị tha
- 223 - Lời Phật dạy về đạo nghĩa trong gia đình
- 224 - HT.Từ Phong trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam
- 225 - Lời Phật dạy về cách quý trọng cuộc sống
- 226 - Pythagore và thuyết luân hồi
- 227 - Thường và vô thường
- 228 - Công tác chuẩn bị Đại lễ Vesak 2019 đang trong giai đoạn nước rút
- 229 - Báo hiếu cha mẹ theo lời Phật dạy
- 230 - Thanh lọc tâm để an lạc
- 231 - 1.500 đại biểu quốc tế dự Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 232 - Chí tâm vì người
- 233 - Soi lại mình
- 234 - Những cái vui trong đạo Phật
- 235 - Lời Phật dạy về 3 điều để trở thành người lương thiện
- 236 - Từ bi là cội nguồn và trái tim của Phật giáo
- 237 - Tha thứ để hóa giải oán thù
- 238 - Khai mạc Hội thảo khoa học về Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
- 239 - Niệm Phật và trị liệu
- 240 - Phật giáo TP.HCM họp đoàn tham dự Vesak LHQ 2019
- 241 - Tu chứng
- 242 - Tránh tạo nhân đau khổ theo lời Phật dạy
- 243 - Chân Không Diệu Hữu trong kinh Hoa Nghiêm
- 244 - Công bố chương trình chi tiết Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 245 - Đại lễ Phật đản Vesak 2019 sẽ bàn chuyện dùng công nghệ số có chánh niệm
- 246 - Bản năng - Hiểu thế nào cho đúng?
- 247 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những bài học sâu sắc giúp cuộc sống hạnh phúc
- 248 - Mở rộng con tim
- 249 - Sự khác biệt giữa Tưởng tri, Thức tri và Trí tuệ
- 250 - Nếp sống trí tuệ của người con Phật
- 251 - Suy nghĩ về khái niệm giải thoát sinh tử trong Đạo Phật
- 252 - Hội thảo khoa học về cư sĩ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền
- 253 - Bộ Công an kiểm tra công tác an ninh cho Vesak 2019
- 254 - Giá trị bình yên
- 255 - Dây trói bền chắc nhất
- 256 - Thông điệp Đại lễ Phật đản Vesak 2019 của Đức Pháp chủ GHPGVN Thích Phổ Tuệ
- 257 - Chánh niệm trước ác ma
- 258 - Oai lực của tâm từ
- 259 - Kiểm soát dục vọng qua góc nhìn Phật học và khoa học
- 260 - Phật giáo thế kỷ XXI
Đối diện với sự đau khổ đã được định chế hóa Phỏng vấn Giáo sư David R. Loy
- 261 - Phật dạy tâm bi tình yêu thương chân thật
- 262 - Hân hoan hướng về Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 263 - Điều phục ý căn
- 264 - Tránh xa 6 hành động làm hao tổn phúc đức
- 265 - Khoa học, nghệ thuật và tính tâm linh
- 266 - Lời Phật dạy sâu sắc về cách làm giàu chân chính
- 267 - Đốn ngộ và Tiệm ngộ trong Thiền tông
- 268 - Mười lợi ích khi tin Phật chân thật
- 269 - Lời Phật dạy về tác hại của việc uống rượu
- 270 - Các cấp độ nhận thức
- 271 - Diễn văn Đại lễ Phật đản PL.2563 – DL.2019 của Hòa thượng Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN
- 272 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam họp Quý 1 năm 2019
- 273 - Tu để được an lạc thân tâm trong kiếp này
- 274 - Thắng tri
- 275 - Tháng 7, bắt đầu ấn hành bộ Đại tạng kinh Việt Nam
- 276 - Tìm hiểu sự hình thành xe hoa, kiệu hoa Phật đản
- 277 - Ý nghĩa, nguồn gốc ngày đại lễ Vesak Liên hiệp quốc
- 278 - Họp báo trước thềm Đại lễ Vesak Liên hợp quốc 2019 tại Việt Nam
- 279 - Lời Phật dạy về tham, sân, si của con người
- 280 - Đại học Phật giáo Hungary thăm Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 281 - Thông tin chi tiết về công tác chuẩn bị Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 282 - Một cách tiếp cận chánh niệm và sự lãnh đạo có chánh niệm
- 283 - An approach to mindfulness and mindful leadership
- 284 - Hòa thượng Chủ tịch ICDV đến Việt Nam
- 285 - Lời Đức Phật dạy: Đi nhiều, khó tu!
- 286 - Có hiếu với mẹ cha tức là kính Phật
- 287 - Khai mạc Hội thảo Quốc tế chào mừng Đại lễ Phật đản LHQ Vesak 2019 tại chùa Tam Chúc
- 288 - Trọng thể khai mạc Đại lễ Phật đản - Vesak LHQ PL.2563 tại Việt Nam
- 289 - Hội thảo quốc tế chủ đề Vesak 2019 bằng Anh ngữ
- 290 - Toàn văn Tuyên bố Hà Nam 2019
- 291 - Bế mạc Đại lễ Vesak LHQ: Tuyên bố Hà Nam 2019
- 292 - Kinh hạt muối là gì?
- 293 - Vượt qua mười hai xứ
- 294 - Phương pháp tiếp cận Phật giáo về vấn đề phát triển kinh tế bền vững
- 295 - Vô ngã, tính Không và Khoa học Lượng tử
- 296 - Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi con người biết được lộ trình sinh tử của mình
- 297 - Long Thọ và Khoa học Lượng tử
- 298 - Thấy mọi thứ đang vận động để lặng yên
- 299 - Hạnh của đất
- 300 - Những nền tảng về quan điểm sinh thái của Thiền tông Phật giáo
- 301 - 12 câu hỏi về cuộc đời đáng suy ngẫm
- 302 - 9 cách thay đổi số phận khi áp dụng các giáo lý nhà Phật
- 303 - Suy tư về sự sống
- 304 - Thiền sư Norman cùng những lời khuyên về lời Phật dạy khi gặp khó khăn
- 305 - Lợi ích của sự biết đủ
- 306 - Mười lý do nên tu tập từ bi quán
- 307 - Tâm Minh Lê Đình Thám, biểu mẫu của người con Phật Việt Nam
- 308 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những lời khuyên nuôi dưỡng hạnh phúc
- 309 - Hiểu và Ngộ
- 310 - Trói buộc và giải thoát
- 311 - The Buddhist Analysis of the Significance of Meditation (bhāvanā) in Promoting Ethical Education in the Modern Society
- 312 - Tâm sinh tướng
- 313 - Văn hoá dung hợp cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo toàn cầu hiện nay
- 314 - Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo bằng
Chánh niệm giúp ngày ngày an vui
- 315 - Buddhist Approach to Mindful Leadership
through An Auspicious Day
- 316 - Thiền và tâm lý trị liệu
- 317 - Sống trong thực tại, bây giờ, và ở đây!
- 318 - Người học thiền thấu qua cửa sắc không
- 319 - Nước mắt và tâm từ bi của một vị thiền sư
- 320 - Như huyễn tam-muội
- 321 - Trí, bi và lạc trong kinh Lăng-già
- 322 - Đức Phật dạy buông bỏ những thứ tưởng là mãi mãi
- 323 - Hốt bụi ném người trên gió chỉ làm bẩn mình
- 324 - Lời Phật dạy sâu sắc về việc hãy sống trọn vẹn hạnh phúc trong hiện tại
- 325 - Không nên hủy nhục người tu hành chân chính
- 326 - Phản tưởng khổ là lạc
- 327 - Sức mạnh của niềm tin
- 328 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh và quan điểm về Phật giáo dấn thân
- 329 - Phương pháp hành thiền cơ bản
- 330 - Đức Đạt Lai Lạt Ma và những câu nói sâu sắc
- 331 - Phương pháp tiếp cận giáo pháp
- 332 - Chánh kiến đi hàng đầu
- 333 - Tu hành tánh Không trong Bồ-tát hạnh
- 334 - Nóng giận là lửa vô minh, lửa vô minh thì thiêu hủy rừng công đức
- 335 - Từ bi quán
- 336 - Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo bằng Chánh niệm giúp ngày ngày an vui
- 337 - Buddhist Approach to Mindful Leadership through An Auspicious Day
- 338 - Tại sao Đức Phật thường nói đến sự khổ đau?
- 339 - Khái niệm về cái chết theo quan điểm Phật giáo
- 340 - Tánh Không là giải thoát
- 341 - Vì sao đức Phật dạy ta nên kết bạn với người hiền trí
- 342 - Phật giáo và trí thức
- 343 - Bố thí, cúng dường cũng có năm bảy đường
- 344 - Chuyển hoá stress
- 345 - Thánh tẩy trần
- 346 - Nên chú tâm vào nội lạc
- 347 - Tam nghiệp và tịnh hóa nghiệp
- 348 - Pháp giới và Pháp giới Thể tánh
- 349 - Thể tánh của Tâm
- 350 - 7 tâm cần phát khởi khi thực hành sám hối
- 351 - Năm phương pháp đưa đến định tâm
- 352 - Phật giáo và đạo đức sinh học hiện đại
- 353 - Sự yên lặng của Đức Phật
- 354 - Lời Phật dạy sâu sắc về tác hại của lời nói dối
- 355 - Tản mạn chuyện sắc không
- 356 - Sự buông xuống sau cùng
- 357 - Bốn cấp độ thiền định
- 358 - Quán tâm trên tâm
- 359 - Thấy khổ để buông khổ
- 360 - Ánh sáng Như Lai
- 361 - Khách trọ trần gian
- 362 - Không bệnh giữa ốm đau
- 363 - Thiền chỉ và thiền quán
- 364 - Tất cả pháp đều là Phật pháp
- 365 - Tại sao có các tướng
- 366 - Tôi phải làm gì để cuộc sống hạnh phúc hơn?
- 367 - Chuyển hoá về Tịnh độ
- 368 - Hãy mỉm cười khi khó khăn đến gõ cửa
- 369 - Chánh kiến
- 370 - Câu chuyện người Kalama
- 371 - Pháp thoại từ khúc gỗ trôi sông
- 372 - Thường Bất Khinh
- 373 - Con đường đi đến Phật đạo
- 374 - Ăn chay
- 375 - Pháp giúp Bồ-tát tại gia thành tựu Bồ-đề vô thượng
- 376 - Muốn chết tốt, phải sống tốt
- 377 - Trí, bi và lạc trong kinh Lăng-già
- 378 - Khởi phát nguồn tâm
- 379 - Lấy thiện tâm giúp người, phúc báo muôn vạn kiếp
- 380 - Vô niệm
- 381 - Nghĩa "Như" của tất cả các pháp
- 382 - Bước thăng bằng trên đường không thăng bằng
- 383 - Quán huyễn trong Phật giáo Việt Nam
- 384 - Tính nhất quán xuyên suốt từ kinh Nguyên thuỷ đến kinh Đại thừa
- 385 - Khẩu nghiệp gây tổn thương người khác là một trong những nghiệp nặng nề nhất
- 386 - Căn bản triết lý và kinh điển của Thiền tông
- 387 - Nhờ lực của Bát-nhã
- 388 - Để Chánh pháp an trú lâu dài
- 389 - Khéo tu thì nổi
- 390 - Vụng tu thì chìm
- 391 - Quan điểm của Phật giáo về chiến tranh và xung đột
- 392 - Lành thay nếu được là học trò của Đức Phật
- 393 - Vai trò của Phật giáo đối với Tổng hạnh phúc quốc gia
- 394 - Mặc áo giáp đi xuyên qua lịch sử
- 395 - Thiền tông Việt Nam
- 396 - Viễn ly sanh y
- 397 - Đức Phật dạy pháp nhập Niết bàn ngay tại đây và bây giờ
- 398 - Phật đi khất thực
- 399 - Chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tự nhiên
- 400 - Vận dụng thiền quán vào xã hội hiện đại để góp phần xây dựng thế giới hòa bình an lạc
- 401 - Uẩn và Không
- 402 - Các Pháp duyên sinh, không thật
- 403 - Bát chánh đạo chính là Trung đạo
- 404 - Chánh niệm trong cuộc sống
- 405 - Thấy như huyễn tức là thấy Như Lai
- 406 - Quan hệ thực tiễn về nhân quả đạo Hiếu
- 407 - Thuyết lượng tử và sự di chuyển của tâm thức
- 408 - Như huyễn trong kinh Kim Cương
- 409 - Karl Marx & Thiền đi bộ
- 410 - Chữ Hiếu: Vẫn đi tìm một định nghĩa
- 411 - Thực tại là Chân như
- 412 - Uống nước nhớ nguồn
- 413 - Bốn ơn lớn mà người Phật tử cần nhớ
- 414 - Ngũ căn & ngũ lực
- 415 - Đi vào đời ác năm trược
- 416 - Những bình diện của tâm linh
- 417 - Tám ngọn gió
- 418 - Tinh thần hiếu đạo trong Kinh Địa Tạng
- 419 - Tri túc: Biết đủ, cách sống mang lại hạnh phúc
- 420 - Như Lai là người chỉ đường
- 421 - Quy trình của lòng nhân
- 422 - Tương ưng và an trụ
- 423 - HT.Thích Thanh Từ nói về "Vu lan mùa Báo hiếu"
- 424 - Nhà khoa học Albert Einstein và đạo Phật
- 425 - Phật tử và thiền
- 426 - Bất kỳ bạn ở đâu, giác ngộ ở đó
- 427 - Những kiến thức cơ bản về Luân hồi trong đạo Phật
- 428 - Chuyển hoá cuộc đời
- 429 - Tâm sân hận tạo nên bi kịch cuộc đời
- 430 - Nghiệp và nghiệp quả
- 431 - Gần đèn thì sáng
- 432 - Thấy biết như thật
- 433 - Tỉnh giác về cái chết
- 434 - Lời Phật dạy sâu sắc về việc hóa giải hận thù
- 435 - Nền tảng của niệm Phật
- 436 - Ba thân và mũ giáp
- 437 - Khổ đau lớn nhất đời người là gì?
- 438 - Quán tưởng
- 439 - 4 nỗi khổ mà mỗi người nên biết
- 440 - Nghiên cứu kinh Kim Cang phần Vô ngã
- 441 - Đức Phật dạy về 3 loại hạnh phúc
- 442 - Bố thí - Việc làm nhỏ mang giá trị lớn lao
- 443 - Lời Phật dạy sâu sắc về "Bạn"
- 444 - Bát Khổ: Chân lý thứ nhất bao quát Tứ Diệu Đế
- 445 - Nghệ thuật sống: Thiền Minh sát tuệ
- 446 - Lời Phật dạy về "Lòng tin"
- 447 - Nên đặt lòng tin như thế nào?
- 448 - Có pháp đốt cháy và pháp không đốt cháy
- 449 - “Sinh tử tức Niết Bàn” và ý nghĩa
- 450 - Vô ngã trong tư tưởng Phật giáo
- 451 - Sát sinh và hậu quả dưới góc nhìn của Phật giáo
- 452 - Niềm tin và trí tuệ
- 453 - Kho tàng của Phật giáo
- 454 - Giá trị bốn chân lý vĩ đại của Phật giáo: Tứ Diệu Đế
- 455 - Giữ tâm ý trong sạch
- 456 - Nhị đế là gì?
- 457 - Người trí biết nhớ ơn & báo ơn
- 458 - "Đau" phải chăng đã là "khổ"
- 459 - Trách nhiệm phổ quát
- 460 - Trầm tư ý nghĩa thực tiễn về Tịnh độ
- 461 - Tuỳ niệm pháp môn tu tập nhập pháp lưu
- 462 - Ngũ tâm hương
- 463 - Tất cả chúng sinh là mẹ
- 464 - Thiểu dục tri túc: Một cách sống hạnh phúc
- 465 - Chân lý Phật giáo là gì?
- 466 - Lời dạy về tình yêu đích thực của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 467 - Sự thật về con người
- 468 - Sự hấp dẫn của đạo Phật
- 469 - Gợi mở lối đi giác ngộ
- 470 - Tu hành như khúc gỗ trôi sông
- 471 - Tản mạn về chữ Hiếu hôm nay
- 472 - Ý nghĩa đời người
- 473 - Tâm này là Phật
- 474 - Không lấy cái tôi làm trung tâm
- 475 - 20 điều nhất định phải tu tập trong đời người
- 476 - Kẻ lọc vàng
- 477 - Tại sao lại có sanh tử
- 478 - Đại tạng kinh Việt Nam: Lại thắp lên niềm hy vọng
- 479 - HT.Thích Giác Toàn, Phó Chủ tịch HĐTS, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học VN: “Thực hiện Đại tạng kinh là sứ mệnh xuyên suốt của Giáo hội”
- 480 - Người xuyên tạc Như Lai
- 481 - Mở rộng thiện duyên
- 482 - Nhận diện đau khổ và diệt trừ đau khổ
- 483 - Chết là lẽ đương nhiên
- 484 - TP.HCM: Văn phòng Viện Nghiên cứu Phật học VN và Học viện Phật giáo viếng tang NT. Ngoạt Liên
- 485 - Bí quyết hạnh phúc theo lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 486 - Nghiệp chi phối đời sống nhân sinh
- 487 - 5 việc làm tạo quả báo xấu, ảnh hưởng lớn tới cả cuộc đời bạn
- 488 - Đức Phật giảng như thế nào về cái chết và quy luật sinh lão bệnh tử trên đời?
- 489 - Khéo tích công bồi đức
- 490 - Thư mời viết bài tham dự hội thảo khoa học : "Di sản Việt Nam - Ấn Độ: Mối quan hệ xuyên văn hoá"
- 491 - Hướng nội hướng ngoại
- 492 - Trở lại vạch xuất phát không phải là thảm họa, cùng lắm là chơi lại một lần nữa
- 493 - Vấn đề tâm linh dưới góc nhìn Phật giáo
- 494 - Phòng hộ sáu căn
- 495 - Suy ngẫm lời Phật dạy
- 496 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh với pháp thoại "Lắng nghe sâu vì hòa bình"
- 497 - Lời Phật dạy về nhân quả báo ứng
- 498 - Có sinh ắt có diệt
- 499 - Tu hành cần vững tâm
- 500 - Lời Phật dạy để gìn giữ giới hạnh
- 501 - Thư mời viết bài hội thảo khoa học "Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh: Lịch sử hình thành và phát triển"
- 502 - Kế hoạch hội thảo khoa học "Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh: Lịch sử hình thành và phát triển"
- 503 - Ý nghĩa Pháp Duyên khởi
- 504 - Buông xả hơn thua nhưng không im lặng
- 505 - Giáo lý Năm uẩn
- 506 - Công đức của việc trì kinh
- 507 - Như lý duyên khởi
- 508 - Sám hối như thế nào là đúng?
- 509 - Một câu chuyện về sức mạnh của lòng từ
- 510 - Thiền sư Huyền Quang và những đóng góp cho Phật giáo đời Trần
- 511 - Hiểu đúng "chữ khổ" trong Phật giáo
- 512 - 10 lời Phật dạy sâu sắc giúp thay đổi cuộc đời bạn
- 513 - Tuổi trẻ với hạnh nhẫn nhục
- 514 - Sống một mình
- 515 - Thoát ly khổ ách
- 516 - Phật giáo nhập thế và các vấn đề xã hội đương đại ở Việt Nam
- 517 - Niệm Phật
- 518 - Sự liên hệ giữa thế giới này và Tịnh độ Tây phương
- 519 - Phật dạy 20 câu thiền ngữ giúp cuộc sống an nhiên, vui vẻ
- 520 - Nghiệp ai nấy mang, duyên ai nấy nhận
- 521 - Nhận rõ chính mình
- 522 - Đạo Phật tiếp cận với đời sống
- 523 - Lời Phật dạy về quán vô thường
- 524 - Không tạo tác
- 525 - Phép tu im lặng
- 526 - Đức Phật và con người hiện đại
- 527 - Lời Phật dạy: Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với ta
- 528 - Viện Nghiên cứu Phật học VN tổng kết Phật sự 2019
- 529 - Đừng để "Phật giáo u buồn" như thế!
- 530 - Đời sống từ bi
- 531 - Làm thế nào để nuôi dưỡng từ bi tâm?
- 532 - Khó thay nghe Chánh pháp
- 533 - Phóng sinh chân chính
- 534 - Con người chân thật nơi chính mình
- 535 - Chân không diệu hữu tự tại thong dong
- 536 - Chân lý qua nghĩa duyên sinh mùa xuân
- 537 - Tỉnh thức giữa quần mê
- 538 - Xuân, vui với Hoà thượng Bố Đại
- 539 - Hoa tàn hoa nở chỉ là Xuân
- 540 - Xuân Di-lặc
- 541 - Mùa xuân trong đạo Phật
- 542 - Đón một mùa xuân an lạc
- 543 - Thư chúc tết xuân Canh Tý của Đức Pháp chủ GHPGVN
- 544 - Ý nghĩa cành mai ngày tết
- 545 - Đầu Xuân, bàn về lới khấn "Nam mô A Di Đà Phật"
- 546 - Phật pháp xây dựng thế gian
- 547 - Ngạ quỷ nghe kinh
- 548 - Lời Phật dạy: Cách để có được hành vi tốt
- 549 - Nobel Kinh tế 2019 từ góc nhìn Phật giáo
- 550 - Triết lý Cân bằng tự nhiên đoạt giải Nobel Y sinh 2019
- 551 - Tổng quan về Giới học
- 552 - Tổng quan về Định học
- 553 - Tổng quan về Tuệ học
- 554 - Đi xem hoa hậu
- 555 - "Không" có ý nghĩa gì?
- 556 - Minh và vô minh
- 557 - Tinh tấn trong đạo Phật khác với nỗ lực ở thế gian
- 558 - Thuyết pháp không vì tiếng tăm
- 559 - Khoa học và Phật giáo
- 560 - Tánh Không, Quang minh và Năng lực
- 561 - Phật giáo - tôn giáo của duy lý
- 562 - Thiền định Phật giáo và khoa sinh học
- 563 - Mục đích của đời người
- 564 - Tình yêu thương là liều thuốc tiên chữa bệnh
- 565 - Tinh tấn quá mức cũng không hẳn là tốt
- 566 - Ý nghĩa lợi tha
- 567 - Hương hoa cúng dường chư Phật
- 568 - Tính chất của nghiệp
- 569 - Chánh niệm để hoá giải căng thẳng
- 570 - Lòng lặng thì nghiệp yên
- 571 - Hạnh tu bố thí
- 572 - Lễ hội vào thành
- 573 - Tâm của người ngồi thiền
- 574 - Một đoạn nhân duyên
- 575 - Nhị đế và Tứ tất-đàn
- 576 - Các pháp là Chân Như vốn toàn thiện
- 577 - Hiểu về Sinh Tử - Cơ hội giải thoát ngàn vàng
- 578 - Nơi lưu trữ mộc bản Đại tạng kinh Hàn Quốc
- 579 - Hàn Quốc: Có 81.352 bản Cao Ly Bát vạn Đại Tạng kinh
- 580 - Đại Chánh Tạng - Lời giới thiệu
- 581 - Pháp đơn giản
- 582 - Đức Phật - Bậc thức tỉnh cho nhân thế
- 583 - Tứ đại trọng ân trong Phật giáo
- 584 - Mục đích cuối cùng của sự tu học là chấm dứt tái sinh
- 585 - Hạnh phúc là buông xả?
- 586 - Tư tưởng Trung đạo qua Bát bất
- 587 - Niệm Phật chớ sợ cười, đừng chờ hẹn
- 588 - Soi gương Chánh pháp
- 589 - Công đức chiêm bái Phật tích
- 590 - Không có kẻ chiến bại
- 591 - Thực hành pháp và tuỳ pháp
- 592 - Bảy pháp làm cho Chánh pháp tăng trưởng
- 593 - Im lặng như pháp
- 594 - Người ngu nghĩ là ngọt
- 595 - Như Lai thọ lượng
- 596 - Bảy pháp cung kính làm cho Chánh pháp tăng trưởng
- 597 - Ra mắt Ban Biên tập và ấn hành Thánh điển Phật giáo VN
- 598 - Tam pháp ấn và sự diệt khổ
- 599 - Thư thỉnh mời viết bài kỷ yếu Trưởng lão Hoà thượng Thích Phước Sơn
- 600 - Giáo pháp như chiếc bè qua sông
- 601 - Nimitta trong Thanh tịnh đạo
- 602 - Một tâm thanh tịnh
- 603 - Giá trị phổ quát của thiền & thuyết nghiệp của đạo Phật
- 604 - Phật huệ, Phật đức, Phật lực hằng hữu miên viễn
- 605 - Pháp thân của chư Phật
- 606 - Phàm tăng & Thánh tăng
- 607 - Phật dạy: Nhìn nước để thấy người
- 608 - Bốn hạng người đáng thân cận
- 609 - Độ nhất thiết khổ ách
- 610 - Một số lời dạy của Đức Phật về Hiếu Hạnh
- 611 - Báo hiếu trong hành vi tôn giáo của Phật tử
- 612 - Vì sao Đức Phật dạy ân đức cha mẹ thật khó báo đền?
- 613 - Trầm tư về đạo hiếu
- 614 - Chữ Hiếu cũng cần vun đắp
- 615 - Phật dạy: Hãy cúng dường cha mẹ
- 616 - Định lượng chữ Hiếu
- 617 - TP. HCM: Họp Ban Biên tập và Ấn hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 618 - Kính thuận với cha mẹ
- 619 - Đạo nghĩa thầy trò
- 620 - Sống theo lời Phật: Mạng sống vô thường
- 621 - Ý dẫn đầu các pháp
- 622 - Phật dạy pháp "trừ sầu lo"
- 623 - Lời Phật dạy cách đối mặt với kẻ tiểu nhân
- 624 - Lược sử Trúc Lâm Tam tổ
- 625 - Niềm tin vào Tam bảo và lòng tự tín của người Phật tử
- 626 - Biết lắng nghe pháp
- 627 - Mối tương quan giữa Đức Phật và thiên nhiên
- 628 - Hưởng thụ lạc bị Như Lai chê trách
- 629 - Pháp sanh diệt
- 630 - Sắp ra mắt ấn bản kinh Trường bộ & Trung bộ
- 631 - Biển cả và Phật pháp
- 632 - Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ra mắt ấn phẩm Kinh Trường Bộ và Kinh Trung Bộ
- 633 - Phóng sự: Ý Nghĩa Tam Tạng Thánh Điển Phật Giáo Việt Nam
- 634 - An Viên Focus: Hành trình Tam tạng Thánh Điển Phật giáo
- 635 - Viện Nghiên cứu Phật Học Việt Nam
- 636 - Cách đối trị sợ hãi theo quan điểm Phật giáo
- 637 - Kế hoạch phối hợp tổ chức hội thảo khoa học toàn quốc về " Phát huy vai trò Tăng, Ni Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc"
- 638 - Thư mời viết bài tham luận
- 639 - Lời Phật dạy: Hãy nhớ tinh tấn, chớ có lười biếng
- 640 - Khuyến khích tu pháp sai mắc tội vô lượng
- 641 - Suy tư & nhận biết
- 642 - Hà Nội: Nữ giới Phật giáo với lĩnh vực báo chí
- 643 - Biết pháp, biết nghĩa, biết thời
- 644 - Biết tiết độ, biết mình, biết hội chúng
- 645 - Thoát khỏi sợ hãi
- 646 - Biết sự hơn kém của người
- 647 - Tu tập cũng như giữ thành
- 648 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổng kết Phật sự 2020
- 649 - Mê tín hay không mê tín?
- 650 - Xuân trong cửa Thiền
- 651 - Thư chúc Tết xuân Tân Sửu của Đức Pháp chủ
- 652 - Hạnh phúc của người tu
- 653 - Đắm say trong dục vui ít khổ nhiều
- 654 - Ngón tay chỉ mặt trăng: Thông điệp kinh Lăng-già
- 655 - Cầu nguyện qua cái nhìn Duyên khởi
- 656 - Nói như hoa như mật
- 657 - Thư mời viết bài tham luận cho hội thảo quốc gia "Giáo hội Phật giáo Việt nam: sự hình thành và phát triển"
- 658 - Thông báo về việc phát hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 659 - Thông bạch v/v Ấn hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 660 - Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Lời chứng minh
- 661 - Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Lời giới thiệu
- 662 - Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Lời nói đầu
- 663 - Giáo hoá bình đẳng
- 664 - Đôi điều về học giới luật Phật giáo
- 665 - Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Phước Sơn (1938-2020)
- 666 - Thông bạch v/v Cúng dường Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 667 - DẪN LUẬN KINH TRƯỜNG BỘ
- 668 - DẪN LUẬN KINH TRUNG BỘ
- 669 - DẪN LUẬN KINH TƯƠNG ƯNG BỘ
- 670 - DẪN LUẬN KINH TĂNG CHI BỘ
- 671 - Ích lợi của việc sám hối
- 672 - Trị liệu bệnh khổ
- 673 - "Công ơn cha mẹ" theo lời Phật dạy
- 674 - Thiểu dục và tri túc trong kinh Di giáo
- 675 - Thành tựu chánh kiến
- 676 - Phật dạy:Nên nói cái gì và im lặng thế nào?
- 677 - Đã gieo trồng thiện căn dẫu chết cũng không sợ
- 678 - Nếu có 5 đức tính này thì người tu ở đâu cũng được thương kính
- 679 - Hướng đến thống nhất tổng mục lục cho Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 680 - Khai mạc hội thảo online "Giáo hội Phật giáo Việt Nam: 40 năm hội nhập và phát triển cùng đất nước"
- 681 - Ban Thường trực Ban Biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam họp với Trung tâm Pāli học
- 682 - Thiền Đại thừa và Tối thượng thừa
- 683 - Giữ giới như giữ rễ cho cây
- 684 - Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh khánh tuế Hòa thượng Thích Giác Toàn
- 685 - Để tâm giải thoát được thuần thục
- 686 - Viện Nghiên cứu Phật học VN chúc Tết Trưởng lão Hòa thượng Quyền Pháp chủ GHPGVN
- 687 - Viện Nghiên cứu Phật học VN sẽ tổ chức nhiều hội thảo trong năm 2022
- 688 - Sự mầu nhiệm của lòng biết ơn
- 689 - Viện Nghiên cứu Phật học VN tổ chức tổng kết nhiệm kỳ vào cuối tháng 10-2022
- 690 - Hòa thượng Thích Giác Toàn: "Thực hiện Đại tạng kinh là sứ mệnh xuyên suốt của Giáo hội”
- 691 - Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Phật học VN dâng hương tưởng niệm Hòa thượng Thích Minh Cảnh
Thiền Đại thừa và thiền Tiểu thừa
Ngã, được triết thuyết là một thể tánh trường tồn, không bị ảnh hưởng của tụ tán và sinh tử[1].
Không thấy thân này là giả hợp của năm thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà cho có một cái ta điều khiển sai sử mọi suy nghĩ hành vi của mình, gọi là chấp ngã. Nói theo thời nay, ngã là tôi. Thấy có tồn tại một cái tôi, thấy thân này là của tôi, tâm này là tâm tôi, gọi là chấp ngã. Ngã vốn không, do chấp giữ mà thành thật, do thấy thật nên chấp giữ.
Pháp chỉ cho tất cả mọi vật mọi sự trên đời. Duy thức học nói: “Nhậm trì tự tánh, quỹ sinh vật giải”. Hòa thượng Thiện Hoa giải thích: “Phàm cái gì tự nó có thể giữ được hình dáng hay khuôn khổ của nó, làm cho người khi trông đến biết đó là vật gì, gọi là pháp. Như vậy, từ cọng cỏ, cây kim, cho đến một tư tưởng, những cảm xúc vui buồn, hay một hiện tượng, một quy luật v.v. đều gọi là pháp. Ngã cũng là một pháp. Nhưng trong câu nói trên, không chỉ ghi pháp mà ghi cả hai, vì khi phân giải năm loại thiền, trong đó có thiền Tiểu thừa[2], Tổ Tông Mật nói: “Người ngộ lý thiên chân thấy ngã không mà tu là thiền Tiểu thừa”. Do muốn phân định rõ các giai đoạn phá trừ chấp ngã và chấp pháp mà phần thiền Đại thừa vẫn ghi thành hai, dù ngã cũng là một pháp.
Như vậy, có tên gọi Đại thừa hay Tiểu thừa là y vào đích đến, tức chỗ chứng quả sâu hay cạn, mà gọi là Tiểu hay Đại.
Chỉ mới phá chấp ngã, gọi là Tiểu. Phá thêm phần chấp pháp, gọi là Đại. Chấp ngã là cái thấy có một chủ tể làm chủ thân tâm này, cho thân tâm này là thật. Phá được chấp ngã thì thấy thân tâm này chỉ là giả hợp của năm thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đủ duyên thì hợp, hết duyên liền tan, không có một cái ngã trường tồn trong đó.
Thân này không dài lâu, ai cũng chết, sắc thân tan rã. Chính cái tan rã đó cho thấy tính không thường hằng của thân này, việc đó chứng tỏ nó không thật, không phù hợp với triết thuyết đã lý giải về ngã, vậy thì tại sao vẫn xảy ra tình trạng chấp ngã ở chúng sinh? Là do tồn tại phần nghiệp thức, còn gọi là thần thức, ngoài đạo gọi là linh hồn. Sau khi thân xác tan rã, người ta vẫn thấy có một linh hồn trải dài sinh tử, từ kiếp này sang kiếp khác, vô tận. Khi chúng sinh còn tạo nghiệp, “Nghiệp hữu lậu làm nhân, phiền não chướng làm duyên, sinh ra Phần đoạn sinh tử của chúng sinh”[3], thì phần nghiệp thức này vẫn lưu chuyển bất tận. Chính vì sự lưu chuyển đó mà chúng sinh vẫn cho có một cái ngã tồn tại trong thân này. Chỉ khi chứng được quả vị A-la-hán, phần nghiệp thức mới thôi lưu chuyển, Phần đoạn sinh tử thật sự chấm dứt, mới thấy được ngã này không. Vì thế chỉ quả vị A-la-hán mới chứng nghiệm được cái ngã không này, ngoại đạo không có phần.
Tổ nói: “Ngộ lý thiên chân, thấy ngã không mà tu …” thì cái thấy ngã không này chỉ mới dừng ở việc tin nhận. Vì chỉ mới tin nhận nên nói đến tu. Nếu thật sự thấy rồi thì không cần tu nữa. Nên ngộ đây là giải ngộ, thấy đây là tin nhận. Nghe Phật nói ngũ ấm duyên hợp, tin và tu. Tu rồi, chứng quả, mới thấy duyên hợp và ngã không là thế nào. Trong trạng thái Diệt thọ tưởng định mới thật thấy thân tâm này không.
Thấy được ngã không là đúng với lý chân. Tuy vậy vẫn còn thấy có Niết-bàn để nhập, sinh tử để lìa, chưa nhận ra được cái gọi là tánh Phật sẵn đủ trong mình, Niết-bàn hay sinh tử chỉ như mộng huyễn hay hoa đốm trong hư không. Tâm chấp pháp vẫn còn nên nói thiên chân, là chân mà chưa ngay đó, còn lệch chút, thiên là lệch.
Đại thừa thì phải ngộ được ngã pháp đều không. Thấy ngã không rồi còn phải thấy pháp không mới là người tu Đại thừa. Ngộ đây là giải ngộ, mới nói tu. Tu rồi triệt ngộ. Triệt ngộ là ngộ được chỗ tận cùng, nhà thiền gọi là kiến tánh, tức thấy được tánh Phật của mình, nên nói “hiển bày chân lý”. Song triệt ngộ chưa phải là giác ngộ toàn phần như Phật, bởi ngộ thì đồng mà giác có cạn sâu. Cổ đức nói: “Đốn ngộ tuy đồng Phật/ Bao đời tập khí sâu/ Gió dừng sóng còn dậy/ Lý hiện niệm còn xâm”. Kinh Đại bát Niết-bàn cũng nói, “Phật tánh là nhân. Niết-bàn là quả”. Triệt ngộ rồi vẫn còn phải tiệm tu, tiêu trừ tập khí. Nên nói, “Người ngộ ngã pháp đều không, hiển bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”. Ngộ rồi còn phải tu.
Thiền Đại thừa và thiền Tối thượng thừa
Lễ bộ Thị lang Tô Phổ hỏi ngài Thần Hội:
- Vì sao gọi là Đại thừa? Thế nào là Tối thượng thừa?
Thần Hội đáp:
- Bồ-tát tức là Đại thừa. Phật tức là Tối thượng thừa.[4]
* Bồ-tát tức là Đại thừa
Nói đến Đại thừa là nói đến Bồ-tát. Nói đến Bồ-tát là nói đến Đại thừa. Tức là ngay đó mà có thể là chưa hẳn đó. Nó diễn tả một mối tương quan không tách lìa nhau hơn là diễn tả hai thứ y chang nhau, dù vẫn ẩn chứa nghĩa y chang trong đó.
Bồ-tát thì không phải Phật dù là Phật sẽ thành. Phải là Phật sẽ thành thì mới được gọi là Bồ-tát. Nếu không là Phật sẽ thành, chỉ lấy quả vị A-la-hán làm đích đến thì gọi là Thanh văn, không gọi là Bồ-tát. Phải phát tâm tu thành Phật mới gọi là Bồ-tát. Bồ-tát, là từng phần giác. Phật là toàn phần giác. Ngộ thì đồng mà giác có cạn sâu. Cũng có hạng Bồ-tát không đồng cả giác lẫn ngộ, vì chỉ mới là giải ngộ, chưa được cái gọi là triệt ngộ.
Tóm lại, nói đến Đại thừa là nói đến Bồ-tát, đến Phật, là Phật sẽ thành. Ba khái niệm này liên quan mật thiết với nhau. Nói Phật sẽ thành, vì nếu ngay đó là Phật thì gọi là Tối thượng thừa, chẳng gọi là Đại thừa, như ngài Thần Hội đã nói “Phật tức là Tối thượng thừa”. Dù vậy vẫn gọi là Bồ-tát, vì Bồ-tát đăng địa có đến mười địa. Pháp duyên khởi nên dây mơ rễ má lằng nhằng như thế.
Hỏi tiếp:
- Đại thừa và Tối thượng thừa có gì sai khác?
Đáp:
- Gọi là Đại thừa, như Bồ-tát thực hành bố thí ba-la-mật, quán ba việc thể không. Cho đến các ba-la-mật còn lại cũng như thế. Cho nên gọi là Đại thừa. Tối thượng thừa thì chỉ thấy tự tánh vốn không tịch, liền biết ba việc xưa nay tự tánh là không, trọn không cần khởi quán. Cho đến Lục độ cũng như thế. Đó gọi là Tối thượng thừa[5].
Ở đây giải thích khá rõ ràng. Gọi là Bồ-tát vì việc của chư vị là thực hành những pháp mà kinh luận đã dạy cho Bồ-tát. Nhìn những việc chư vị làm thì biết chư vị là Bồ-tát. Việc đó là thực hành Lục độ ba-la-mật. Độ đầu của Lục độ là bố thí. Không phải bố thí như thường dân, thương xót hay ưa thích mà bố thí. Vì nó đi kèm với từ ba-la-mật. Ba-la-mật là đến bờ kia. Bố thí sao cho ta và người đều đến bờ kia, không phải chỉ vì thương hay kính mà cho.
Khá nhiều người thấy việc phóng sinh của đạo tràng là vô ích. Tự dưng mua cá về thả để người ta câu lại. Tiền thả cá cũng khá nhiều. Để dành cho người bệnh hay người nghèo coi thực tế hơn.
Người bệnh và người nghèo có phần của người bệnh và người nghèo. Chính vì thế mà có các chuyến thiện nguyện ở Tây Nguyên, trại cùi, người mù, trẻ em cơ nhỡ v.v. Còn phóng sinh là phóng sinh. Phóng sinh, có quả báo là trường thọ, không nạn tai, không bệnh tật, không chết yểu. Bồ-tát đạo không phải là con đường đơn giản. Không phải cứ chứng thánh rồi là an toàn trăm phần trăm. Ngài Ương Quật Ma vẫn bị ném đá và đánh đập, vì nghiệp sát đã tạo trong hiện đời. Cạo đầu vô chùa rồi, thiên hạ vẫn vào đó giết cho được, vì từng gây nghiệp bất thiện trong quá khứ. Phóng sinh là để chuyển bớt nghiệp cũ xấu ác, có được nghiệp mới tốt đẹp. Có sức khỏe thì đâu cũng xông pha giúp đỡ được. Không chết yểu thì gặp dữ cảnh vẫn bảo toàn được tính mạng v.v. Có vậy mới không thấy sợ khi làm Bồ-tát, không thối tâm Bồ-đề. Những hình thức đó cũng kiến tạo nên cái nhìn tốt đẹp cho chúng sinh, tạo cho chúng sinh có niềm tin với Phật pháp, không ngán con đường Bồ-tát đạo. Tu Bồ-tát hạnh, nếu mọi thứ không hơn gì thiên hạ khi công sức phải bỏ ra quá nhiều, phải hạn chế mọi thú vui ở đời v.v... thì không ai còn tâm đâu dám tu hành. Chính vì thế cần phải phóng sinh.
Tuy vậy, việc chính của phóng sinh không chỉ nằm ở mặt quả báo cho riêng mình mà là gieo duyên với các nhân vật được phóng sinh. Thoát chết trên thớt hay bay nhảy được trong nước, dù quý hóa, vẫn chỉ là sự sung sướng trong chốc lát. Giải thoát kiếp cá, làm người học đạo, sống lại được với Phật tánh của mình mới là việc thiết yếu của kiếp chúng sinh. Vì thế trong việc phóng sinh, không chỉ là thả suông và tìm một nơi thả tương đối an toàn cho lũ chúng, mà còn phải tụng kinh, niệm Phật, quy y, hồi hướng công đức và phát nguyện. Các việc đó mới là chính. Bởi những việc đó giúp mình và người đến bờ kia.
Với các thiện nguyện khác cũng vậy. Bố thí hay cúng dường đều phải có ba-la-mật trong đó. Việc chính vẫn là giúp chư vị gieo duyên với Tam bảo, hồi hướng công đức có được cho chư vị và phát nguyện gieo duyên cùng chư vị khi chư vị chưa có điều kiện gặp Tam bảo, cũng như phát nguyện cùng chư vị thành tựu quả Phật. Những việc như thế giúp mình và người đến bờ kia.
Một việc giúp tới bờ kia quan trọng nữa là khi bố thí “quán ba việc thể không”. Cái quán này không chỉ trợ duyên cho việc phát định mà còn trợ duyên giúp phát triển trí tuệ khi làm việc bố thí. Đây thuộc phần thiền định và trí tuệ trong Lục độ ba-la-mật. Bố thí muốn thành tựu ba-la-mật thì phải có thiền định và trí tuệ trong đó.
Thể không là muốn nói muôn pháp vốn không, tuy có hình tướng nhưng tánh thể vẫn không. Đây là bước đầu trong việc thực hành, phù hợp với đường hướng của người tu Đại thừa, thấy ngã và pháp đều không. Vì thế không thể chỉ bố thí như thường dân mà còn phải quán ba thứ thể không. Cái quán này một khi thuần thục, pháp pháp sẽ hiện rõ bản chất thực của nó.
Ba thứ là người thí, vật thí và người được thí. Người thí, kinh luận gọi là năng thí. Vật thí và người được thí gọi chung là sở thí. Khi bố thí phải quán ba thứ này không.
- Quán không để khỏi dính mắc, khỏi khởi tâm bất mãn với sở thí, khỏi thấy ta làm nhiều rồi tăng trưởng ngã mạn v.v.
- Quán không thì lâu dần cái ta mới hiện rõ bản chất của nó.
- Quán không vì kinh Kim cang dạy: “Bồ-tát đối với pháp nên không chỗ trụ mà hành bố thí. Đó là không trụ sắc mà bố thí, không trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà bố thí. Này Tu-bồ-đề! Nên như thế mà bố thí, không trụ nơi tướng”. Phải tập hành cho được cái vô sở trụ này thì tâm mới khế hợp với cái vô trụ của bản giác, việc kiến tánh mới xảy ra. Không thì bố thí nhiều bao nhiêu cũng chỉ ở mức độ quả báo trời người. Không trụ tướng thì tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh mới không. Sau mới có thể chứng nhập được pháp không.
Đó là nói riêng về tướng bố thí. Các tướng còn lại cũng như thế mà quán.
Trong quá trình tu Đại thừa, khi hành giả chứng nghiệm được nhất niệm vô sinh (kiến tánh), là thấy được tánh Phật của mình, thì gọi là Tối thượng thừa. Thấy được tánh ấy rồi thì biết tánh tất cả pháp là không. Không này không phải là không đối với có. Nếu tánh là cái không đối với có thì tất cả pháp không thể sinh khởi theo duyên như hiện nay. Vì nghĩa của tánh là không đổi. Không này vượt có và không, không phải là đối tượng của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, v.v... như kinh Bát-nhã đã nói. Bặt hết tám thức mới nhận được tánh này. Thực thấy rồi thì không cần phải quán, chỉ tùy duyên làm Phật sự. Không phải chỉ với việc bố thí mà với tất cả pháp ở thế gian đều như thế. Tánh vốn không tịch, tùy duyên mà hiện hình tướng.
* Phật tức là Tối thượng thừa
Tổ Tông Mật nói: “Người đốn ngộ tự tâm xưa nay thanh tịnh, vốn không có phiền não, trí tánh vô lậu sẵn tự đầy đủ, tâm này tức là Phật, cứu cánh không khác, y đây mà tu là thiền Tối thượng thừa, cũng gọi là thiền Như Lai thanh tịnh, cũng gọi là Nhất hạnh tam muội. Nếu người hay niệm niệm tu tập, tự nhiên dần dần được trăm ngàn tam muội”.
Đốn ngộ là khi hành giả trực nhận được tánh Phật của mình, là thật sự nhận ra tánh không của vạn pháp, không còn nằm ở phương diện quán hay tin. Tánh đó thanh tịnh, không có phiền não, trí tánh vô lậu sẵn tự đầy đủ. Tuy vậy, đa phần Bồ-tát khi trực nhận tánh thể này thì chỉ là nhất niệm. Niệm niệm còn lại vẫn là giác hữu tình, chưa phải Phật, nên nói “y đây mà tu” là nương nhất niệm đốn ngộ ấy mà tu.
Về nhất hạnh tam muội, kinh Pháp bảo đàn nói: “Nhất hạnh tam muội là đối với tất cả chỗ, đi đứng ngồi nằm thường hành một trực tâm ấy vậy… Hành trực tâm là đối với tất cả pháp chớ có chấp trước. Người mê chấp pháp tướng, chấp nhất hạnh tam muội, chỉ nói ngồi không động, tâm vọng không khởi, là nhất hạnh tam muội. Người khởi hiểu như thế là đồng với vô tình, trở lại thành nhân duyên chướng đạo”.
Tu nhất hạnh tam muội thì mọi hành tác, ở tất cả chỗ, đều chỉ hành một trực tâm. Trực tâm là đối với tất cả pháp không có tâm chấp trước, không phải ngồi yên một chỗ, tất cả mọi vọng niệm đều đè bẹp mà gọi là trực tâm. Đó chỉ là phương tiện ban đầu giúp hành giả điều phục dòng niệm tưởng của mình. Bởi không ngồi yên, không đủ lực để thấy niệm tưởng mà điều phục. Do tâm quen hướng ra ngoài, lực hướng ngoại sẽ khiến hành giả khó thấy được tâm khi tiếp duyên, vì thế cần một chỗ yên tịnh, thân cần yên, sự phản quan mới có thể thực hiện, giúp điều phục tâm mình. Còn thực hành nhất hạnh tam muội, không lệ thuộc vào tướng ngồi hay nằm, v.v. chỉ là đối với pháp không có tâm chấp trước. Đó là tâm hiện lượng nói trong kinh Lăng-già, là “Nhân cảnh đều chẳng đoạt” trong Tứ liệu giản của tông Lâm Tế. Kệ rằng, “Tâm trụ vị trí tâm/ Tâm chẳng giữ nơi cảnh/ Cảnh trụ vị trí cảnh/ Cảnh chẳng giữ nơi tâm/ Vọng niệm chẳng thể sinh/ Thì với đạo chẳng ngại”.
Có thể phân định rõ thiền Đại thừa và Tối thượng thừa theo ba tông mà tổ Tông Mật nói trong Nguồn thiền: Một, tông dứt vọng tu tâm. Hai, tông dứt bặt không chỗ nương. Ba, tông chỉ thẳng tâm tánh. Ba tông này tuy có khác mà cùng một lý đến là ngộ nhập tri kiến Phật của mình. Vì sao biết? Vì ngay tông đầu tiên, luận đã nói: “Chúng sinh tuy sẵn có tánh Phật, vì bị vô minh từ vô thủy che lấp mà không thấy, nên luân hồi sinh tử. Chư Phật đã đoạn vọng tưởng nên thấy tánh rõ ràng, ra khỏi sinh tử, được thần thông tự tại. Nên biết phàm thánh công dụng không đồng…”. Dứt vọng tu tâm là vì thế. Như vậy, lý ba tông cùng đến là Phật tánh, nhưng trên sự có chỗ lập tông khác nhau là do căn cơ của chúng sinh. Cơ khác nên chỗ lập tông có khác. Đây là chỗ phân biệt với thiền ngoại đạo, dù thiền ngoại đạo cũng nói đến việc dứt bỏ mọi vọng niệm.
a) Tông dứt vọng tu tâm
Đây là chỗ mà đa phần hành giả mới tu đều phải nương vào đó, điều phục vọng tưởng của mình. Cần đến tướng ngồi yên ổn. Phương tiện tiến vào cảnh thiền là xa lìa chỗ ồn náo, yên ở chỗ vắng vẻ điều thân, điều hơi thở, ngồi kiết-già yên lặng, lưỡi hướng lên ổ gà, tâm chú một cảnh[6]. Tâm chuyên chú một cảnh giúp trừ bỏ vọng tưởng, đạt được định tâm là chủ trương của tâm này. Chỉ cần chuyên chú một cảnh là được nên hành giả tu tông này có thể trụ tâm ở một điểm ngoài cơ thể hay ngay cơ thể. Trong kinh Lăng nghiêm, ngài Nan Đà quán tướng trắng chóp mũi, trải qua hai mươi mốt ngày thấy hơi thở ra vào như khói… Ngài Hàm Thị giải thích: “Quán tướng trắng chóp mũi là ý bảo buộc tâm tại một chỗ trải qua hai mươi mốt ngày, tâm ngưng động lặng lẽ, bên trong phát ra sáng suốt viên mãn…” Đây là một trong các cách tu thuộc tông này.
b) Tông dứt bặt không chỗ nương
Vì chân thể vô trụ, nếu còn trụ, dù là trụ không, thì khó có thể nhập được chỗ vô trụ. Vì thế phải dứt bặt không chỗ nương. Dứt bặt… là đoạn vọng tưởng mà không cần nương vào chỗ nào như tông dứt bặt tu tâm. Hòa thượng Trúc Lâm giải thích: “Tông này chủ trương dùng trí Bát-nhã để phá các chấp tướng. Như ngài Thạch Đầu chủ trương loại ra: Quán tất cả pháp đều là hư vọng để tâm không còn kẹt trên danh tướng”. Pháp Biết vọng không theo là biết tất cả niệm khởi đều là vọng, không để chúng dẫn chạy cũng thuộc tông này.
c) Tông chỉ thẳng tâm tánh
Chỉ thẳng tâm tánh là ý nói mọi hành tác nói năng dù là thiện hay ác, đều là dụng của Phật tánh, tất cả đều là từ chân tâm hiện, không phải do nghiệp chúng sinh mà có. Muốn vậy thì thiền này phải đặt nền tảng trên việc kiến tánh. Phải kiến tánh rồi mới có thể ứng dụng tông này. Kiến tánh rồi, nếu chưa thể “nhất hạnh tam muội” trong tất cả thời, còn phải cẩn thận với thân, khẩu, ý của mình, nói là chưa kiến tánh. Không thì chúng sinh vẫn hoàn chúng sinh, vì không tu, không hàng phục, mọi hành tác nói năng đều là kết quả của tập nghiệp, không phải là dụng trực tiếp từ chân tâm như chư Tổ Thiền tông. Hòa thượng Trúc Lâm dạy: “Tất cả đều từ chân tâm hiện thì khi gặp cảnh không còn phân biệt mình, người, khen chê, tốt, xấu, hay dở, không khởi niệm thủ xả v.v., tức khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, tâm không còn dính mắc. Vì vậy không cần đoạn, không cần tu, mặc tình tự tại”. Đây là tiêu chuẩn để biết ai tu được tông này. Chính yếu là tâm không còn dính mắc với ngoại cảnh. Tâm còn dính mắc với ngoại cảnh thì không thể ứng dụng tông này. Hòa thượng Trúc Lâm nói: “Thời bây giờ, có một số người nghe tông này, liền vin vào đó mà ăn ngủ, đi đây đi kia chơi... Đó là lầm lớn. Mặc tình tự tại là khi nào đối cảnh tâm không khởi niệm chạy theo cảnh. Chúng ta, tâm còn chạy theo cảnh thì phải ngồi lại tu”. Chỉ cần tâm còn chạy theo cảnh là không thể mặc tình tự tại. Vọng tưởng còn dày thì biết chưa thể ứng dụng tông này mà không tu, không đoạn.
Từ tông này, chúng ta hiểu được vì sao chư thiền sư có khi có cách hành xử thấy có vẻ hồ đồ, thậm chí là phạm giới. Như Thiền sư Nam Tuyền chém mèo v.v. Vì tâm chư vị không còn dính mắc với ngoại cảnh, tập chúng sinh đã hết, mọi hành tác đều là dụng của chân tâm, sinh khởi hành vi nào cũng đều do ứng tâm vì lợi ích của chúng sinh, không phải do bất thiện nghiệp sinh ra, nên không thể y cứ trên hình thức thiện ác của chúng sinh mà đánh giá.
Tông này thuộc về thiền Tối thượng thừa.
Ở trên là nương vào mặt duyên khởi của thiền Tiểu thừa, Đại thừa và Tối thượng thừa để hiển rõ ba loại thiền. Nắm được thì ứng dụng không lầm.
__________________________________
(1) Wikipedia.
(2) Để nguyên tên Tổ đã gọi, để thấy rõ mặt duyên khởi của pháp.
(3) Thành duy thức học - HT.Thích Thiện Siêu dịch và chú.
(4) Thần Hội ngữ lục - HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng.
(5) Thần Hội ngữ lục - Phần Thị lang Tô Phổ - HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng.
(6) Nguồn thiền - HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng.
Theo GIÁC NGỘ online