Pháp thí thắng mọi thí - Pháp hỷ thắng mọi hỷ - Ái diệt thắng mọi khổ - Niết-bàn lạc tối thượng.

>>

Vượt qua mười hai xứ

Trước tiên, nên thấy rằng Phật giáo là pháp xuất thế gian, pháp để thoát khổ, pháp để xa lìa ba cõi - không phải pháp thế gian chỉ thuần để thư giãn hay chữa bệnh, tuy rằng vẫn có vô lượng hiệu ứng phụ giúp người trần nhẹ gánh.
Mục lục

Trước tiên, nên thấy rằng Phật giáo là pháp xuất thế gian, pháp để thoát khổ, pháp để xa lìa ba cõi - không phải pháp thế gian chỉ thuần để thư giãn hay chữa bệnh, tuy rằng vẫn có vô lượng hiệu ứng phụ giúp người trần nhẹ gánh.

Nói thoát khổ như thế, nghĩa là thoát ra khỏi sinh tử luân hồi. Nghĩa là thoát ra khỏi những buộc ràng, những phiền trược của tất cả các kinh nghiệm của chúng ta luân hồi trong ba cõi - tức là sáu nội xứ (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và sáu ngoại xứ (cái được thấy, cái được nghe, cái được ngửi, cái được nếm, cái được chạm xúc, cái được tư niệm).

Trong kinh Sabba Sutta (kinh Tất cả; Tương ng bộ SN 35.23), bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu, Đức Phật dạy: ... này các T-kheo, thế nào là tất c? Mắt và các sắc; tai và các tiếng; mi và các hương; lưỡi và các v; thân và các xúc; và các pháp. Nhvậy, này các T- kheo, gi là tất c[1].

Một bài kệ của ngài Bồ-đề-đạt-ma, khi tóm tắt tông chỉ Thiền tông, đã nói tới mười hai xứ này (nơi đây, chúng ta trích bốn câu, thay vì đầy đủ là tám câu trong phần Nhị chủng nhập của sách Thiếu Thất Lc môn):

Ngoi tức chduyên,
N
ội tâm vô đoan,
Tâm nh
tường bích,
Kh
dnhập đạo.

Có thể dịch là: Bên ngoài dứt bặt muôn duyên, bên trong không còn tư lường tăm hơi manh mối gì, tâm y hệt như tường vách, mới có thể vào đạo.

Bên ngoài là nói sáu ngoại xứ, bên trong là nói sáu nội xứ. Nếu lúc nào cũng thấy được tâm như thế, tất nhiên không cần tu gì nữa, làm gì cũng chỉ là thêm sương trên tuyết.

Đọc tạng Pali, chúng ta sẽ thấy bốn câu thơ với mười sáu chữ trên là dịch rất sát nghĩa từ kinh Trung bộ MN- 138 (Uddesavibha ga Sutta - Kinh Tổng thuyết và Biệt thuyết), bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu là:

“Thế Tôn nói nhsau: - Này các T-kheo, vT-kheo cần phi quán sát một cách nhthế nào để thức ca vị ấy đối với ngoi trần không tán lon, không tn rộng, tâm không trú trước nội trần, không bchấp thquấy rối. Này các T-kheo, nếu thức đối với ngoi trần không tán lon, không tn rộng, tâm không trú trước nội trần, không bchấp thquấy rối, skhông có tập khởi, sanh khởi ca khổ về sanh, già, chết trong tương lai.

Thế Tôn nói nhvậy. Nói nhvậy xong, Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy rồi bước vào tinh xá”[2].

Mấy chữ “tâm nhtường vách” trong bản Việt dịch là “không bchấp thquấy rối”, trong bản Anh dịch của Thanissaro Bhikkhu là “from lack of clinging /sustenance he would be unagitated...”.

Nếu trực tiếp an tâm được như thế, là xong. Nhưng, giả sử, nếu còn vướng bận, còn thấy chút tăm hơi manh mối trong tâm, làm sao để tu tập?

Nơi đây, chúng ta nói về hai pháp: hoặc ly tham, hoặc nhận ra tự tánh Không của các pháp.

Thứ nhất, nói về pháp ly tham. Trong nhóm kinh Tương ng, có ba bản kinh có các đoạn cuối y hệt nhau về ly tham: Kinh SN 22.53, kinh SN 22.54, kinh SN 22.55.

Nơi đây, chúng ta trích đoạn cuối kinh SN 22.55, bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu:

“Này T-kheo, nếu T-kheo đon tận tham đối với thức giới, do tham được đon tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chca thức không hiện hữu.

Không có chỗ y chnhvậy thức không tng trưởng, không có hành động, được gii thoát; do gii thoát nên được kiên trú; do kiên trú nên được tri túc; do tri túc nên không có u não; do không có u não nên tự mình cm thấy tch tnh hoàn toàn. Vị ấy biết: ‘Sanh đã tận, Phm hnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trng thái này nữa’...” [3].

Nghĩa là, hễ ly tham được là bên ngoài cắt đứt sở duyên, bên trong thức không chỗ bám (không chỗ y chỉ) và như thế là kiên trú, tịch tịnh, và giải thoát.

Cũng nên ghi nhận thêm rằng, kinh Itivuttaka-1 thuộc Tiểu bộ ghi lời Đức Phật rằng hễ ly tham là chắc chắn đắc quả A-na-hàm (Bất lai, tức Thánh quả thứ ba). Học giả John D. Ireland trong tác phẩm “The Udana and the Itivuttaka” (Kinh Cảm hứng ngữ và kinh Phật thuyết như vậy) nơi phần chú thích ở trang 217 (ấn bản 2007), viết rằng ly tham ái (sensual lust) sẽ đắc quả Bất lai, nhưng ly được tham hữu (greed for being) mới là A-la-hán.

Về ly tham, cũng có thể dẫn ra kinh Tương ng Sn 4.1 (Kama Sutta: Kinh về tham dục) trong nhóm kinh Nhật tụng Sơ thời4 - nơi đây Đức Phật dạy: “... khi xa lìa tham dc, svượt qua trận lt, hệt nhghe được tát nước và qua tới Bờ Bên Kia”.

Thứ hai, nói về pháp nhận ra tự tánh Không của các pháp. Cũng có nghĩa là nhận ra các pháp vốn thực là vô ngã.

Thí dụ như âm nhạc làm mê đắm lòng người, nhưng khi chẻ cây đàn ra làm trăm hay ngàn mảnh, cũng không ai tìm được âm thanh ở đâu. Nghĩa là, các pháp duyên vào nhau mới hiện ra trước mắt và bên tai chúng ta, nhưng thực tướng chính là rỗng rang vô tướng.

Kinh Tương ng SN 35.242

(Dutiyadārukkhandhopama Sutta - kinh Đờn tỳ-bà), bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu như sau: “Ví nh, này các T-kheo, một vvua hay đại thần ca vua từ trước cha từng được nghe tiếng đàn t-bà, nay được nghe tiếng đàn t-bà, vị ấy nói: ‘Này bn, tiếng ấy là tiếng gì, khái nhvậy, khlc nhvậy, mê ly nhvậy, say đắm nhvậy, hấp dẫn nhvậy?’ Hnói với vị ấy: ‘Tha Tôn gi, đây là đàn t-bà, với tiếng khái nhvậy, mê ly nhvậy, khlc nhvậy, say đắm nhvậy, hấp dẫn nhvậy’. Vị ấy nói nhsau: ‘Hãy đi và đem đàn t-bà ấy về cho ta’. Họ đem đàn t-bà về cho vị ấy, và nói nhsau: ‘Tha Tôn gi, đàn t-bà này với tiếng khái nhvậy, khlc nhvậy, mê ly nhvậy, say đắm nhvậy, hấp dẫn nhvậy’. Vị ấy bèn nói: ‘Thôi vừa rồi đối với ta về đàn t-bà này. Hãy đem tiếng li cho ta’. Htha với vị ấy: ‘Tha Tôn gi, cái này được gi là đàn t-bà, gồm có nhiều thành phần, gồm có số lớn thành phần. Nhờ nhiều thành phần này nên đàn phát âm. Nhduyên cái bầu, duyên cái da, duyên cái cán, duyên cái đầu, duyên cái dây, duyên cái cung, duyên nỗ lực thích nghi ca người. Nhvậy, tha Tôn gi, cái này gi là đàn t-bà, gồm có nhiều thành phần, gồm có số lớn thành phần. Nhờ gồm nhiều thành phần này nên đàn phát âm’. Rồi vua ấy đập đàn t-bà ấy ra thành 10 mnh, 100 mnh; sau khi đập bể đàn t-bà ấy ra thành 10 mnh, 100 mnh, vị ấy chthành từng miếng nh; sau khi chthành từng miếng nh, vị ấy lấy lửa đốt; sau khi lấy lửa đốt, vị ấy vun li thành đống tro; sau khi vun li thành đống tro, vị ấy đem qut đống tro lớn ấy trước làn gió mnh, hay để chúng trôi theo dòng nước sông chy mnh. Rồi vị ấy nói: ‘Thật là hliệt, cái gi đàn t-bà này, dầu cho t-bà là cái gì. Ở đây, đại chúng thường phóng dật, bhướng dẫn sai lc’.”[5].

Hễ thấy các pháp rỗng rang không thể nắm bắt như tiếng đàn tỳ-bà, lập tức mười hai xứ sẽ tịch tịnh, không có gì cần phải mài giũa nữa. Một khi đã thấy tự tánh Không này xong, trọn đời chỉ cần giữ cái nhìn này; Thiền tông gọi là, sau khi ngộ được thực tướng các pháp là vô tướng, phải bảo nhậm cái nhìn này để tập khí phiền não nhạt dần.

Trong nhóm kinh được chư Tăng tụng hàng ngày khi Đức Phật sinh tiền, có bản kinh Tương ng SN 5.15 Mogharaja-manava-puccha cũng dạy rất cô đọng, rằng hãy luôn luôn tỉnh thức và nhìn tất cả các pháp rỗng rang như thế; kinh nói:

“Hỡi Mogharaja, hãy luôn luôn tnh thức và nhìn thế giới nhrỗng rang, với cái nhìn về tự ngã đã bứng gốc, người đó svượt qua sự chết. Thần Chết không thể thấy người đã nhìn thế giới này nhthế[4].

Như thế, chúng ta thấy rằng nhiều kinh trong tạng Pali là cội nguồn cho các câu thơ trên của ngài Bồ-đề- đạt-ma, người đã khai sáng ra Thiền tông.
 


Ghi chú:

1. Kinh Tương ng SN 35.23 (kinh Tất cả): https:// suttacentral.net/sn35.23/vi/minh_chau.

2. Kinh Trung bộ MN-138 (Kinh Tổng thuyết và Biệt thuyết): https://suttacentral.net/mn138/vi/minh_chau.

3. Kinh Tương ng SN 22.55 (kinh Lời cảm hứng): https:// suttacentral.net/sn22.55/vi/minh_chau.

4. Kinh Nhật tụng Sơ thời: https://thuvienhoasen.org/ p15a30590/kinh-nhat-tung-so-thoi.

5. Kinh Tương ng SN 35.242 (kinh Đờn tỳ-bà) https:// suttacentral.net/sn35.242/vi/minh_chau.


Theo Văn hoá Phật giáo số 313+314 ngày 15-1-2019

Đại Tạng Kinh Việt Nam

Tháng Năm