Tìm hiểu giáo nghĩa Tịnh độ Chân tông Nhật Bản
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng (Đại Chánh Tạng tập 83). Các trứ tác sau này của Ngài chỉ là bổ sung và phát triển quan điểm này từ các phương diện khác. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu kết cấu toàn thể hệ thống giáo nghĩa Chân tông và các đặc điểm của nó.
Mục lục
- 10 - Thư mời viết bài hội thảo khoa học: Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền với Hội Phật học Nam Việt
- 11 - Thư mời viết bài tham luận cho Vesak 2019
- 12 - Thư mời viết bài hội thảo khoa học: Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám và Hội An Nam Phật học
- 13 - Ảnh hưởng của phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam(1920) đến việc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam(1981)
- 14 - Tỷ-kheo phải biết xông khói
- 15 - Nhân minh học là khoa học của mọi luận lý
- 16 - Thư mời HỘI THẢO KHOA HỌC "Phật giáo Cổ truyền Việt Nam và sự đóng góp cho Đạo Pháp và Dân Tộc"
- 17 - Đạo Phật và trí thức
- 18 - Sách nói : Kinh Trường Bộ
- 19 - Ra mắt nhân sự Viện nghiên cứu Phật học VN NK 2007- 2012
- 20 - Cơ cấu nhân sự Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 21 - Ra mắt nhân sự Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 22 - Viện Nghiên cứu Phật học VN tổng kết năm 2014
- 23 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổ chức lễ tổng kết Phật sự 2015 và phương hướng hoạt động 2016
- 24 - Buổi họp Ban thường trực Hội đồng Quản trị Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 25 - BTS Phật giáo TP.HCM làm lễ Tự tứ mãn hạ
- 26 - Viện Nghiên Cứu Phật Học VN họp chỉnh sửa bổ sung cho quy chế nhiệm kỳ 8 (2017-2022)
- 27 - Viện Nghiên cứu Phật học VN thăm viếng chư tôn đức dịch giả
- 28 - Sẽ nỗ lực hoàn thành Bộ Đại tạng kinh Việt Nam
- 29 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam họp phiên đầu tiên của nhiệm kỳ mới
- 30 - Gần 450 nhân sự tham gia Viện Nghiên cứu Phật học VN
- 31 - Khởi động việc ấn hành Đại tạng kinh Phật giáo VN
- 32 - HỌC CÁCH ĐỐI DIỆN VỚI SỢ HÃI
- 33 - Con người phụ thuộc vào tự nhiên và có sự tác động lẫn nhau
- 34 - Nguồn gốc Phật giáo
- 35 - Phiên âm Đại Tạng Kinh
- 36 - Góp chút công sức cho Đại tạng kinh Việt Nam
- 37 - Góp phần đề nghị một đề cương biên dịch cho Đại tạng kinh Việt Nam
- 38 - Học và tu
- 39 - Viện Nghiên cứu Phật học VN có Ban Vận động tài chánh
- 40 - Hoạt động của Ban Phiên dịch Phật học Anh - Việt
- 41 - Lễ tổng kết của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, nhiệm kỳ 2012-2017
- 42 - Tôn giáo và Đạo đức
- 43 - Khai phát Trí tuệ nhìn từ tư tưởng Kinh Duy Ma Cật
- 44 - Thủ tướng chủ trì họp về công tác tổ chức Đại lễ Vesak 2019
- 45 - Chuẩn bị cho Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 46 - Phỏng vấn Hoà thượng Chủ tịch ICDV về Vesak 2019
- 47 - TP.HCM:Họp Ủy ban Quốc gia Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 48 - VIDEO: Việt Nam đăng cai lần thứ 3 Đại lễ Vesak LHQ
- 49 - Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội triển khai công tác Phật sự năm 2019
- 50 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (1)
- 51 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (2)
- 52 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (3)
- 53 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (4)
- 54 - Đức Dalai Lama nói về Phật giáo ứng dụng (5)
- 55 - Thân người khó được, Phật pháp khó nghe
- 56 - Nếp sống đạo đức, lành mạnh của người Phật tử
- 57 - Suy nghĩ đôi điều về sự cầu siêu và cúng thí thực
- 58 - Chữ Tâm trong đạo Phật
- 59 - Phật giáo mô tả về Vũ trụ như thế nào? (1)
- 60 - Phật giáo mô tả về Vũ trụ như thế nào? (2)
- 61 - Để tâm Vô trụ khi làm từ thiện
- 62 - Tính chất giáo dục của Giới luật Phật giáo
- 63 - Ý thức về Tội lỗi
- 64 - Điều quan yếu của đời sống
- 65 - Hiểu rõ hơn về Nghiệp
- 66 - Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Cảnh (1937-2018)
- 67 - Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Sam (1929 - 2018)
- 68 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Đức Chơn(1932-2017)
- 69 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Chơn Kim (1930 - 2017)
- 70 - Sơ Lược Tiểu Sử Hòa thượng Thích Trí Tịnh
- 71 - Tiểu Sử Đại Lão Hòa thượng Thích Đổng Quán(1925-2009)
- 72 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Bửu Chung (1881-1947)
- 73 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Huệ Quang (1888 - 1956)
- 74 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Khánh Anh
- 75 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Hoàng Từ
- 76 - Tiểu Sử Hòa thượng Thích Nhật Liên
- 77 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Thiện Hoa (1918 - 1973) Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN
- 78 - Sơ Lược Tiểu Sử Hòa thượng Thích Quảng Tâm
- 79 - Tiểu Sử cố Đại Lão Hòa thượng Thích Bảo An
- 80 - Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ
- 81 - Tiểu sử Hòa thượng Thích Bửu Phước (1880-1948)
- 82 - Tiểu sử trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu (1918 - 2012)
- 83 - Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Từ Nhơn (1926 - 2013)
- 84 - Tìm hiểu giáo nghĩa Tịnh độ Chân tông Nhật Bản
- 85 - Không đắm nhiễm thì sống vui
- 86 - Cõi âm có hay không? Nhận thức của Phật giáo đối với vấn đề này
- 87 - Kinh Tương Ưng Bộ - HT Thích Minh Châu dịch Việt
- 88 - Kinh Trường Bộ 1 - HT Thích Minh Châu dịch Việt
- 89 - Nhân sự Ban in ấn và phát hành nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 90 - Nhân sự Ban Tài chính nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 91 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 92 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Phật học Hán truyền nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 93 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Văn học Phật giáo nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 94 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Thiền học Nam Truyền nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 95 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Thiền học Bắc Truyền nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 96 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Nữ giới Phật giáo nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 97 - Nhân sự Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 98 - Nhân sự Trung tâm Phiên dịch Anh - Việt Phật học nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 99 - Nhân sự Phân viện Nghiên cứu Phật giáo Nam Tông nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 100 - Nhân sự Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam nhiệm kỳ VIII (2017-2022)
- 101 - Quan điểm về Theravāda và Mahāyāna của Phật Hoàng Trần Nhân Tông
- 102 - Tìm hiểu ý nghĩa câu kệ Sùng Nghiêm của Trần Nhân Tông
- 103 - Mục tiêu của đạo Phật là gì?
- 104 - Khởi nguyên Thiền Học Việt Nam
- 105 - Phật hoàng Trần Nhân Tông và những giá trị siêu việt
- 106 - Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng (P.1)
- 107 - Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng (P.2)
- 108 - Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng (P.3)
- 109 - Lợi ích của pháp tu lạy Phật
- 110 - Tại sao nhiều người mê cõi Tây phương Cực lạc?
- 111 - Đức Phật có phủ nhận việc cầu nguyện?
- 112 - Bốn pháp mang đến an lạc đời sau cho người cư sĩ
- 113 - Ba căn lành chẳng thể cùng tận
- 114 - Cầu nguyện có được kết quả như ý không?
- 115 - Vì người tạo ác nghiệp, chính mình phải chịu tội
- 116 - Phật dạy 20 điều khó
- 117 - Biết sống vô thường (P.1)
- 118 - Biết sống vô thường (P.2)
- 119 - Biết sống vô thường (P.3)
- 120 - Biết sống vô thường (Phần cuối)
- 121 - 7 thứ gia tài bậc Thánh
- 122 - Cầu nguyện là chánh tín hay mê tín?
- 123 - Để việc phóng sinh thể hiện lòng từ bi đúng nghĩa
- 124 - Tự vấn về Pháp môn Tịnh độ
- 125 - Ý nghĩa tụng kinh Dược Sư và niệm Phật Dược Sư
- 126 - Pháp trợ niệm của Đức Phật
- 127 - Làm sao vui với chuyện thị phi?
- 128 - Đại lễ Vesak 2019: Sự kiện đối ngoại nhân dân
- 129 - Người gánh phân nghèo hèn và bài học Tâm không phân biệt của Đức Phật
- 130 - Bản ý của Tịnh độ tông
- 131 - Ba điều căn bản của người tu Phật
- 132 - Năm pháp khiến Chánh pháp không diệt ở thời Mạt pháp
- 133 - Về niên đại Hán dịch của kinh Na Tiên Tỳ-kheo
- 134 - Vua Trần Nhân Tông và tinh thần "Bụt ở trong nhà"
- 135 - Bản chất thời gian với ý nghĩa giải thoát của đạo Phật
- 136 - Đạo Phật bi quan hay lạc quan?
- 137 - Cực Lạc và Luân Hồi: Bất Nhị trong Tịnh Độ Tông
- 138 - Nguyễn Du và Phân Kinh Thạch Đài
- 139 - Cận cảnh ngôi chùa đăng cai đại lễ Vesak 2019 và khối Thiên thạch Mặt Trăng 600.000 USD
- 140 - Họp Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 141 - Pali - Việt đối chiếu
- 142 - Từ điển Bách khoa Phật giáo Việt Nam
- 143 - Từ điển Pháp số Tam Tạng
- 144 - Từ điển Hư Từ
- 145 - Từ điển Hán Phạn - Buddhist Chinese-Sanskrit
- 146 - Phật Quang Đại Từ điển
- 147 - Từ điển Thiền tông Hán - Việt
- 148 - Hạnh phúc là gì, mà ai cũng phải đi tìm?
- 149 - Tiếp tục đôn đốc, chuẩn bị cho Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 150 - Nghiên cứu về trải nghiệm cận tử thông qua thiền định
- 151 - Tiêu giải nghiệp chướng theo lời Phật dạy
- 152 - 7 điều suy ngẫm từ Đạt Lai Lạt Ma có thể thay đổi cuộc đời của bạn
- 153 - Ba bài học sâu sắc từ Phật giáo để có được sự an lạc giữa cuộc sống bộn bề
- 154 - Thiền sư Khương Tăng Hội: Sơ tổ của Thiền tông Việt Nam
- 155 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổng kết 6 tháng cuối năm 2018 và triển khai hoạt động năm 2019
- 156 - Hội nghị trù bị lần 2 Đại lễ Vesak 2019 tại Việt Nam
- 157 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đảnh lễ Hoà thượng Thiền sư Thích Thanh Từ
- 158 - Đại lễ Phật đản Vesak 2019 có gì đặc biệt?
- 159 - Bốn pháp thu phục lòng người
- 160 - Tổng hợp những lời dạy của Đức Phật hay và ý nghĩa
- 161 - Vô ngã vị tha - cách nhìn Phật giáo về công bằng xã hội
- 162 - Vô minh trong Phật giáo có ý nghĩa gì?
- 163 - 7 việc Phật dạy không đáng “hy sinh” trong đời
- 164 - Nuôi dưỡng lòng từ bi trong cuộc sống với 7 bước luyện tập
- 165 - Những câu nói truyền cảm hứng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 166 - Làm thế nào để có một đời sống đạo đức?
- 167 - Lắng nghe 108 lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma
- 168 - Khiêm tốn là phẩm đức của bậc đại trí
- 169 - Thiền sư Vạn Hạnh và tinh thần Phật giáo đồng hành cùng dân tộc
- 170 - Thiền sư Thường Chiếu – Người có công giao nhập 3 dòng Thiền phái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XIII
- 171 - Tại sao Thiền sư Thường Chiếu dám 'cãi' về Tổ Bồ Đề Đạt Ma?
- 172 - Phật dạy làm người quan trọng nhất là phải có lương thiện
- 173 - Đức Phật là người hạnh phúc!
- 174 - Ý nghĩa cầu nguyện trong đạo Phật
- 175 - Pháp lạc trong tu học
- 176 - Mê và giác
- 177 - Quán vô thường để chứng đạt vô ngã
- 178 - Lời Phật dạy: Sống vị tha là một trong những phép tắc đạo đức cao quý nhất!
- 179 - Lời Phật dạy dành cho những người hay phiền muộn
- 180 - Vì sao hạnh phúc không thể tách rời lòng vị tha?
- 181 - Video giới thiệu Đại lễ Phật Đản Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 182 - Lời Phật dạy về cách tạo dựng phúc đức cho sinh mệnh con người
- 183 - 3 bí ẩn diệu kỳ của thiền định
- 184 - Phật dạy cách buông bỏ mọi phiền não
- 185 - Những nét chính về cuộc đời Hòa thượng Tuyên Hóa
- 186 - Ban Văn hóa T.Ư họp bàn việc phục vụ Vesak 2019
- 187 - 6 chân lí của hạnh phúc từ lời Phật dạy
- 188 - 17 lời khuyên sâu sắc về cuộc sống từ Thiền sư Kodo Sawaki
- 189 - 50 chân lý bất biến của cuộc đời
- 190 - Phật dạy: Hết củi thì lửa tắt
- 191 - Hai thứ tự do
- 192 - Câu chuyện Đức Phật và 3 người đàn ông cùng bài học xương máu
- 193 - Trầm cảm dưới góc nhìn Phật giáo, ngồi Thiền chữa trầm cảm theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 194 - Nghĩ về Đại lễ Liên Hiệp Quốc Vesak 2019 từ những tách trà nóng kỷ niệm
- 195 - An ninh trật tự phục vụ Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019 đã sẵn sàng!
- 196 - Giáo hội Phật giáo Việt Nam triển khai công tác tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 197 - Giới đức nặng hơn đất, mạn cao hơn trời, hồi tưởng nhanh hơn gió và tư tưởng nhiều hơn cỏ!
- 198 - Quán chiếu tâm và đoạn ác tâm để làm sinh thiện tâm
- 199 - Sự ra đi bí ẩn của Tổ sư Hệ phái Khất sĩ Việt Nam Minh Đăng Quang 65 năm trước
- 200 - Cách tiếp cận của con người đối với hoà bình thế giới
- 201 - Thiền sư Khương Tăng Hội sinh ra trên đất Việt, truyền Phật giáo từ Giao Chỉ tới Đông Ngô
- 202 - Chuyển hóa sân hận bằng 5 phương cách theo lời đức Phật dạy!
- 203 - Tuyên Quang triển khai kế hoạch Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019
- 204 - Thiền sư Pháp Đảnh (Hàn Quốc): Đệ Nhất Trì luật-Đạo hạnh sáng ngời
- 205 - Tìm hiểu Thiền Quán tử thi - phép tu mạnh mẽ để nhận thức vô ngã tại Thái Lan
- 206 - Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019: Tôn vinh giá trị nhân văn, hòa bình
- 207 - Lời giảng vi diệu của Đức Phật về thuật Lãnh đạo
- 208 - Ý nghĩa đời sống
- 209 - Lịch trình dự kiến của Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2019
- 210 - Lời Phật dạy sâu sắc về lòng hiếu thảo đối với cha mẹ
- 211 - Vì sao vua Lý Thánh Tông đã từng nổi giận đốt chùa rồi lại sám hối xây chùa
- 212 - Phép Hỏa quang tam muội của hai Thiền sư Việt
- 213 - Trút bỏ phiền ưu theo lời Phật dạy
- 214 - Công tác Tình nguyện viên phục vụ Đại lễ Vesak Liên hiệp quốc 2019
- 215 - Vì sao người Phật tử nên ăn chay?
- 216 - Tham lam là liều thuốc độc!
- 217 - Sống hạnh phúc theo lời Phật dạy
- 218 - Cơ sở 2 bệnh viện Bạch Mai ở Hà Nam sẽ phục vụ tốt cho Vesak 2019
- 219 - Công an Hà Nam triển khai kế hoạch giữ trật tự ATGT phục vụ Đại lễ Vesak 2019
- 220 - Nghiệp và Giải nghiệp theo Chánh pháp
- 221 - Các ban chuyên môn họp đúc kết công tác chuẩn bị cho Đại lễ Vesak 2019
- 222 - Phương thuốc của lòng vị tha
- 223 - Lời Phật dạy về đạo nghĩa trong gia đình
- 224 - HT.Từ Phong trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam
- 225 - Lời Phật dạy về cách quý trọng cuộc sống
- 226 - Pythagore và thuyết luân hồi
- 227 - Thường và vô thường
- 228 - Công tác chuẩn bị Đại lễ Vesak 2019 đang trong giai đoạn nước rút
- 229 - Báo hiếu cha mẹ theo lời Phật dạy
- 230 - Thanh lọc tâm để an lạc
- 231 - 1.500 đại biểu quốc tế dự Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 232 - Chí tâm vì người
- 233 - Soi lại mình
- 234 - Những cái vui trong đạo Phật
- 235 - Lời Phật dạy về 3 điều để trở thành người lương thiện
- 236 - Từ bi là cội nguồn và trái tim của Phật giáo
- 237 - Tha thứ để hóa giải oán thù
- 238 - Khai mạc Hội thảo khoa học về Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
- 239 - Niệm Phật và trị liệu
- 240 - Phật giáo TP.HCM họp đoàn tham dự Vesak LHQ 2019
- 241 - Tu chứng
- 242 - Tránh tạo nhân đau khổ theo lời Phật dạy
- 243 - Chân Không Diệu Hữu trong kinh Hoa Nghiêm
- 244 - Công bố chương trình chi tiết Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 245 - Đại lễ Phật đản Vesak 2019 sẽ bàn chuyện dùng công nghệ số có chánh niệm
- 246 - Bản năng - Hiểu thế nào cho đúng?
- 247 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những bài học sâu sắc giúp cuộc sống hạnh phúc
- 248 - Mở rộng con tim
- 249 - Sự khác biệt giữa Tưởng tri, Thức tri và Trí tuệ
- 250 - Nếp sống trí tuệ của người con Phật
- 251 - Suy nghĩ về khái niệm giải thoát sinh tử trong Đạo Phật
- 252 - Hội thảo khoa học về cư sĩ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền
- 253 - Bộ Công an kiểm tra công tác an ninh cho Vesak 2019
- 254 - Giá trị bình yên
- 255 - Dây trói bền chắc nhất
- 256 - Thông điệp Đại lễ Phật đản Vesak 2019 của Đức Pháp chủ GHPGVN Thích Phổ Tuệ
- 257 - Chánh niệm trước ác ma
- 258 - Oai lực của tâm từ
- 259 - Kiểm soát dục vọng qua góc nhìn Phật học và khoa học
- 260 - Phật giáo thế kỷ XXI
Đối diện với sự đau khổ đã được định chế hóa Phỏng vấn Giáo sư David R. Loy
- 261 - Phật dạy tâm bi tình yêu thương chân thật
- 262 - Hân hoan hướng về Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2019
- 263 - Điều phục ý căn
- 264 - Tránh xa 6 hành động làm hao tổn phúc đức
- 265 - Khoa học, nghệ thuật và tính tâm linh
- 266 - Lời Phật dạy sâu sắc về cách làm giàu chân chính
- 267 - Đốn ngộ và Tiệm ngộ trong Thiền tông
- 268 - Mười lợi ích khi tin Phật chân thật
- 269 - Lời Phật dạy về tác hại của việc uống rượu
- 270 - Các cấp độ nhận thức
- 271 - Diễn văn Đại lễ Phật đản PL.2563 – DL.2019 của Hòa thượng Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN
- 272 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam họp Quý 1 năm 2019
- 273 - Tu để được an lạc thân tâm trong kiếp này
- 274 - Thắng tri
- 275 - Tháng 7, bắt đầu ấn hành bộ Đại tạng kinh Việt Nam
- 276 - Tìm hiểu sự hình thành xe hoa, kiệu hoa Phật đản
- 277 - Ý nghĩa, nguồn gốc ngày đại lễ Vesak Liên hiệp quốc
- 278 - Họp báo trước thềm Đại lễ Vesak Liên hợp quốc 2019 tại Việt Nam
- 279 - Lời Phật dạy về tham, sân, si của con người
- 280 - Đại học Phật giáo Hungary thăm Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam
- 281 - Thông tin chi tiết về công tác chuẩn bị Đại lễ Vesak LHQ 2019
- 282 - Một cách tiếp cận chánh niệm và sự lãnh đạo có chánh niệm
- 283 - An approach to mindfulness and mindful leadership
- 284 - Hòa thượng Chủ tịch ICDV đến Việt Nam
- 285 - Lời Đức Phật dạy: Đi nhiều, khó tu!
- 286 - Có hiếu với mẹ cha tức là kính Phật
- 287 - Khai mạc Hội thảo Quốc tế chào mừng Đại lễ Phật đản LHQ Vesak 2019 tại chùa Tam Chúc
- 288 - Trọng thể khai mạc Đại lễ Phật đản - Vesak LHQ PL.2563 tại Việt Nam
- 289 - Hội thảo quốc tế chủ đề Vesak 2019 bằng Anh ngữ
- 290 - Toàn văn Tuyên bố Hà Nam 2019
- 291 - Bế mạc Đại lễ Vesak LHQ: Tuyên bố Hà Nam 2019
- 292 - Kinh hạt muối là gì?
- 293 - Vượt qua mười hai xứ
- 294 - Phương pháp tiếp cận Phật giáo về vấn đề phát triển kinh tế bền vững
- 295 - Vô ngã, tính Không và Khoa học Lượng tử
- 296 - Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi con người biết được lộ trình sinh tử của mình
- 297 - Long Thọ và Khoa học Lượng tử
- 298 - Thấy mọi thứ đang vận động để lặng yên
- 299 - Hạnh của đất
- 300 - Những nền tảng về quan điểm sinh thái của Thiền tông Phật giáo
- 301 - 12 câu hỏi về cuộc đời đáng suy ngẫm
- 302 - 9 cách thay đổi số phận khi áp dụng các giáo lý nhà Phật
- 303 - Suy tư về sự sống
- 304 - Thiền sư Norman cùng những lời khuyên về lời Phật dạy khi gặp khó khăn
- 305 - Lợi ích của sự biết đủ
- 306 - Mười lý do nên tu tập từ bi quán
- 307 - Tâm Minh Lê Đình Thám, biểu mẫu của người con Phật Việt Nam
- 308 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những lời khuyên nuôi dưỡng hạnh phúc
- 309 - Hiểu và Ngộ
- 310 - Trói buộc và giải thoát
- 311 - The Buddhist Analysis of the Significance of Meditation (bhāvanā) in Promoting Ethical Education in the Modern Society
- 312 - Tâm sinh tướng
- 313 - Văn hoá dung hợp cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo toàn cầu hiện nay
- 314 - Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo bằng
Chánh niệm giúp ngày ngày an vui
- 315 - Buddhist Approach to Mindful Leadership
through An Auspicious Day
- 316 - Thiền và tâm lý trị liệu
- 317 - Sống trong thực tại, bây giờ, và ở đây!
- 318 - Người học thiền thấu qua cửa sắc không
- 319 - Nước mắt và tâm từ bi của một vị thiền sư
- 320 - Như huyễn tam-muội
- 321 - Trí, bi và lạc trong kinh Lăng-già
- 322 - Đức Phật dạy buông bỏ những thứ tưởng là mãi mãi
- 323 - Hốt bụi ném người trên gió chỉ làm bẩn mình
- 324 - Lời Phật dạy sâu sắc về việc hãy sống trọn vẹn hạnh phúc trong hiện tại
- 325 - Không nên hủy nhục người tu hành chân chính
- 326 - Phản tưởng khổ là lạc
- 327 - Sức mạnh của niềm tin
- 328 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh và quan điểm về Phật giáo dấn thân
- 329 - Phương pháp hành thiền cơ bản
- 330 - Đức Đạt Lai Lạt Ma và những câu nói sâu sắc
- 331 - Phương pháp tiếp cận giáo pháp
- 332 - Chánh kiến đi hàng đầu
- 333 - Tu hành tánh Không trong Bồ-tát hạnh
- 334 - Nóng giận là lửa vô minh, lửa vô minh thì thiêu hủy rừng công đức
- 335 - Từ bi quán
- 336 - Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo bằng Chánh niệm giúp ngày ngày an vui
- 337 - Buddhist Approach to Mindful Leadership through An Auspicious Day
- 338 - Tại sao Đức Phật thường nói đến sự khổ đau?
- 339 - Khái niệm về cái chết theo quan điểm Phật giáo
- 340 - Tánh Không là giải thoát
- 341 - Vì sao đức Phật dạy ta nên kết bạn với người hiền trí
- 342 - Phật giáo và trí thức
- 343 - Bố thí, cúng dường cũng có năm bảy đường
- 344 - Chuyển hoá stress
- 345 - Thánh tẩy trần
- 346 - Nên chú tâm vào nội lạc
- 347 - Tam nghiệp và tịnh hóa nghiệp
- 348 - Pháp giới và Pháp giới Thể tánh
- 349 - Thể tánh của Tâm
- 350 - 7 tâm cần phát khởi khi thực hành sám hối
- 351 - Năm phương pháp đưa đến định tâm
- 352 - Phật giáo và đạo đức sinh học hiện đại
- 353 - Sự yên lặng của Đức Phật
- 354 - Lời Phật dạy sâu sắc về tác hại của lời nói dối
- 355 - Tản mạn chuyện sắc không
- 356 - Sự buông xuống sau cùng
- 357 - Bốn cấp độ thiền định
- 358 - Quán tâm trên tâm
- 359 - Thấy khổ để buông khổ
- 360 - Ánh sáng Như Lai
- 361 - Khách trọ trần gian
- 362 - Không bệnh giữa ốm đau
- 363 - Thiền chỉ và thiền quán
- 364 - Tất cả pháp đều là Phật pháp
- 365 - Tại sao có các tướng
- 366 - Tôi phải làm gì để cuộc sống hạnh phúc hơn?
- 367 - Chuyển hoá về Tịnh độ
- 368 - Hãy mỉm cười khi khó khăn đến gõ cửa
- 369 - Chánh kiến
- 370 - Câu chuyện người Kalama
- 371 - Pháp thoại từ khúc gỗ trôi sông
- 372 - Thường Bất Khinh
- 373 - Con đường đi đến Phật đạo
- 374 - Ăn chay
- 375 - Pháp giúp Bồ-tát tại gia thành tựu Bồ-đề vô thượng
- 376 - Muốn chết tốt, phải sống tốt
- 377 - Trí, bi và lạc trong kinh Lăng-già
- 378 - Khởi phát nguồn tâm
- 379 - Lấy thiện tâm giúp người, phúc báo muôn vạn kiếp
- 380 - Vô niệm
- 381 - Nghĩa "Như" của tất cả các pháp
- 382 - Bước thăng bằng trên đường không thăng bằng
- 383 - Quán huyễn trong Phật giáo Việt Nam
- 384 - Tính nhất quán xuyên suốt từ kinh Nguyên thuỷ đến kinh Đại thừa
- 385 - Khẩu nghiệp gây tổn thương người khác là một trong những nghiệp nặng nề nhất
- 386 - Căn bản triết lý và kinh điển của Thiền tông
- 387 - Nhờ lực của Bát-nhã
- 388 - Để Chánh pháp an trú lâu dài
- 389 - Khéo tu thì nổi
- 390 - Vụng tu thì chìm
- 391 - Quan điểm của Phật giáo về chiến tranh và xung đột
- 392 - Lành thay nếu được là học trò của Đức Phật
- 393 - Vai trò của Phật giáo đối với Tổng hạnh phúc quốc gia
- 394 - Mặc áo giáp đi xuyên qua lịch sử
- 395 - Thiền tông Việt Nam
- 396 - Viễn ly sanh y
- 397 - Đức Phật dạy pháp nhập Niết bàn ngay tại đây và bây giờ
- 398 - Phật đi khất thực
- 399 - Chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tự nhiên
- 400 - Vận dụng thiền quán vào xã hội hiện đại để góp phần xây dựng thế giới hòa bình an lạc
- 401 - Uẩn và Không
- 402 - Các Pháp duyên sinh, không thật
- 403 - Bát chánh đạo chính là Trung đạo
- 404 - Chánh niệm trong cuộc sống
- 405 - Thấy như huyễn tức là thấy Như Lai
- 406 - Quan hệ thực tiễn về nhân quả đạo Hiếu
- 407 - Thuyết lượng tử và sự di chuyển của tâm thức
- 408 - Như huyễn trong kinh Kim Cương
- 409 - Karl Marx & Thiền đi bộ
- 410 - Chữ Hiếu: Vẫn đi tìm một định nghĩa
- 411 - Thực tại là Chân như
- 412 - Uống nước nhớ nguồn
- 413 - Bốn ơn lớn mà người Phật tử cần nhớ
- 414 - Ngũ căn & ngũ lực
- 415 - Đi vào đời ác năm trược
- 416 - Những bình diện của tâm linh
- 417 - Tám ngọn gió
- 418 - Tinh thần hiếu đạo trong Kinh Địa Tạng
- 419 - Tri túc: Biết đủ, cách sống mang lại hạnh phúc
- 420 - Như Lai là người chỉ đường
- 421 - Quy trình của lòng nhân
- 422 - Tương ưng và an trụ
- 423 - HT.Thích Thanh Từ nói về "Vu lan mùa Báo hiếu"
- 424 - Nhà khoa học Albert Einstein và đạo Phật
- 425 - Phật tử và thiền
- 426 - Bất kỳ bạn ở đâu, giác ngộ ở đó
- 427 - Những kiến thức cơ bản về Luân hồi trong đạo Phật
- 428 - Chuyển hoá cuộc đời
- 429 - Tâm sân hận tạo nên bi kịch cuộc đời
- 430 - Nghiệp và nghiệp quả
- 431 - Gần đèn thì sáng
- 432 - Thấy biết như thật
- 433 - Tỉnh giác về cái chết
- 434 - Lời Phật dạy sâu sắc về việc hóa giải hận thù
- 435 - Nền tảng của niệm Phật
- 436 - Ba thân và mũ giáp
- 437 - Khổ đau lớn nhất đời người là gì?
- 438 - Quán tưởng
- 439 - 4 nỗi khổ mà mỗi người nên biết
- 440 - Nghiên cứu kinh Kim Cang phần Vô ngã
- 441 - Đức Phật dạy về 3 loại hạnh phúc
- 442 - Bố thí - Việc làm nhỏ mang giá trị lớn lao
- 443 - Lời Phật dạy sâu sắc về "Bạn"
- 444 - Bát Khổ: Chân lý thứ nhất bao quát Tứ Diệu Đế
- 445 - Nghệ thuật sống: Thiền Minh sát tuệ
- 446 - Lời Phật dạy về "Lòng tin"
- 447 - Nên đặt lòng tin như thế nào?
- 448 - Có pháp đốt cháy và pháp không đốt cháy
- 449 - “Sinh tử tức Niết Bàn” và ý nghĩa
- 450 - Vô ngã trong tư tưởng Phật giáo
- 451 - Sát sinh và hậu quả dưới góc nhìn của Phật giáo
- 452 - Niềm tin và trí tuệ
- 453 - Kho tàng của Phật giáo
- 454 - Giá trị bốn chân lý vĩ đại của Phật giáo: Tứ Diệu Đế
- 455 - Giữ tâm ý trong sạch
- 456 - Nhị đế là gì?
- 457 - Người trí biết nhớ ơn & báo ơn
- 458 - "Đau" phải chăng đã là "khổ"
- 459 - Trách nhiệm phổ quát
- 460 - Trầm tư ý nghĩa thực tiễn về Tịnh độ
- 461 - Tuỳ niệm pháp môn tu tập nhập pháp lưu
- 462 - Ngũ tâm hương
- 463 - Tất cả chúng sinh là mẹ
- 464 - Thiểu dục tri túc: Một cách sống hạnh phúc
- 465 - Chân lý Phật giáo là gì?
- 466 - Lời dạy về tình yêu đích thực của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 467 - Sự thật về con người
- 468 - Sự hấp dẫn của đạo Phật
- 469 - Gợi mở lối đi giác ngộ
- 470 - Tu hành như khúc gỗ trôi sông
- 471 - Tản mạn về chữ Hiếu hôm nay
- 472 - Ý nghĩa đời người
- 473 - Tâm này là Phật
- 474 - Không lấy cái tôi làm trung tâm
- 475 - 20 điều nhất định phải tu tập trong đời người
- 476 - Kẻ lọc vàng
- 477 - Tại sao lại có sanh tử
- 478 - Đại tạng kinh Việt Nam: Lại thắp lên niềm hy vọng
- 479 - HT.Thích Giác Toàn, Phó Chủ tịch HĐTS, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học VN: “Thực hiện Đại tạng kinh là sứ mệnh xuyên suốt của Giáo hội”
- 480 - Người xuyên tạc Như Lai
- 481 - Mở rộng thiện duyên
- 482 - Nhận diện đau khổ và diệt trừ đau khổ
- 483 - Chết là lẽ đương nhiên
- 484 - TP.HCM: Văn phòng Viện Nghiên cứu Phật học VN và Học viện Phật giáo viếng tang NT. Ngoạt Liên
- 485 - Bí quyết hạnh phúc theo lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
- 486 - Nghiệp chi phối đời sống nhân sinh
- 487 - 5 việc làm tạo quả báo xấu, ảnh hưởng lớn tới cả cuộc đời bạn
- 488 - Đức Phật giảng như thế nào về cái chết và quy luật sinh lão bệnh tử trên đời?
- 489 - Khéo tích công bồi đức
- 490 - Thư mời viết bài tham dự hội thảo khoa học : "Di sản Việt Nam - Ấn Độ: Mối quan hệ xuyên văn hoá"
- 491 - Hướng nội hướng ngoại
- 492 - Trở lại vạch xuất phát không phải là thảm họa, cùng lắm là chơi lại một lần nữa
- 493 - Vấn đề tâm linh dưới góc nhìn Phật giáo
- 494 - Phòng hộ sáu căn
- 495 - Suy ngẫm lời Phật dạy
- 496 - Thiền sư Thích Nhất Hạnh với pháp thoại "Lắng nghe sâu vì hòa bình"
- 497 - Lời Phật dạy về nhân quả báo ứng
- 498 - Có sinh ắt có diệt
- 499 - Tu hành cần vững tâm
- 500 - Lời Phật dạy để gìn giữ giới hạnh
- 501 - Thư mời viết bài hội thảo khoa học "Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh: Lịch sử hình thành và phát triển"
- 502 - Kế hoạch hội thảo khoa học "Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh: Lịch sử hình thành và phát triển"
- 503 - Ý nghĩa Pháp Duyên khởi
- 504 - Buông xả hơn thua nhưng không im lặng
- 505 - Giáo lý Năm uẩn
- 506 - Công đức của việc trì kinh
- 507 - Như lý duyên khởi
- 508 - Sám hối như thế nào là đúng?
- 509 - Một câu chuyện về sức mạnh của lòng từ
- 510 - Thiền sư Huyền Quang và những đóng góp cho Phật giáo đời Trần
- 511 - Hiểu đúng "chữ khổ" trong Phật giáo
- 512 - 10 lời Phật dạy sâu sắc giúp thay đổi cuộc đời bạn
- 513 - Tuổi trẻ với hạnh nhẫn nhục
- 514 - Sống một mình
- 515 - Thoát ly khổ ách
- 516 - Phật giáo nhập thế và các vấn đề xã hội đương đại ở Việt Nam
- 517 - Niệm Phật
- 518 - Sự liên hệ giữa thế giới này và Tịnh độ Tây phương
- 519 - Phật dạy 20 câu thiền ngữ giúp cuộc sống an nhiên, vui vẻ
- 520 - Nghiệp ai nấy mang, duyên ai nấy nhận
- 521 - Nhận rõ chính mình
- 522 - Đạo Phật tiếp cận với đời sống
- 523 - Lời Phật dạy về quán vô thường
- 524 - Không tạo tác
- 525 - Phép tu im lặng
- 526 - Đức Phật và con người hiện đại
- 527 - Lời Phật dạy: Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với ta
- 528 - Viện Nghiên cứu Phật học VN tổng kết Phật sự 2019
- 529 - Đừng để "Phật giáo u buồn" như thế!
- 530 - Đời sống từ bi
- 531 - Làm thế nào để nuôi dưỡng từ bi tâm?
- 532 - Khó thay nghe Chánh pháp
- 533 - Phóng sinh chân chính
- 534 - Con người chân thật nơi chính mình
- 535 - Chân không diệu hữu tự tại thong dong
- 536 - Chân lý qua nghĩa duyên sinh mùa xuân
- 537 - Tỉnh thức giữa quần mê
- 538 - Xuân, vui với Hoà thượng Bố Đại
- 539 - Hoa tàn hoa nở chỉ là Xuân
- 540 - Xuân Di-lặc
- 541 - Mùa xuân trong đạo Phật
- 542 - Đón một mùa xuân an lạc
- 543 - Thư chúc tết xuân Canh Tý của Đức Pháp chủ GHPGVN
- 544 - Ý nghĩa cành mai ngày tết
- 545 - Đầu Xuân, bàn về lới khấn "Nam mô A Di Đà Phật"
- 546 - Phật pháp xây dựng thế gian
- 547 - Ngạ quỷ nghe kinh
- 548 - Lời Phật dạy: Cách để có được hành vi tốt
- 549 - Nobel Kinh tế 2019 từ góc nhìn Phật giáo
- 550 - Triết lý Cân bằng tự nhiên đoạt giải Nobel Y sinh 2019
- 551 - Tổng quan về Giới học
- 552 - Tổng quan về Định học
- 553 - Tổng quan về Tuệ học
- 554 - Đi xem hoa hậu
- 555 - "Không" có ý nghĩa gì?
- 556 - Minh và vô minh
- 557 - Tinh tấn trong đạo Phật khác với nỗ lực ở thế gian
- 558 - Thuyết pháp không vì tiếng tăm
- 559 - Khoa học và Phật giáo
- 560 - Tánh Không, Quang minh và Năng lực
- 561 - Phật giáo - tôn giáo của duy lý
- 562 - Thiền định Phật giáo và khoa sinh học
- 563 - Mục đích của đời người
- 564 - Tình yêu thương là liều thuốc tiên chữa bệnh
- 565 - Tinh tấn quá mức cũng không hẳn là tốt
- 566 - Ý nghĩa lợi tha
- 567 - Hương hoa cúng dường chư Phật
- 568 - Tính chất của nghiệp
- 569 - Chánh niệm để hoá giải căng thẳng
- 570 - Lòng lặng thì nghiệp yên
- 571 - Hạnh tu bố thí
- 572 - Lễ hội vào thành
- 573 - Tâm của người ngồi thiền
- 574 - Một đoạn nhân duyên
- 575 - Nhị đế và Tứ tất-đàn
- 576 - Các pháp là Chân Như vốn toàn thiện
- 577 - Hiểu về Sinh Tử - Cơ hội giải thoát ngàn vàng
- 578 - Nơi lưu trữ mộc bản Đại tạng kinh Hàn Quốc
- 579 - Hàn Quốc: Có 81.352 bản Cao Ly Bát vạn Đại Tạng kinh
- 580 - Đại Chánh Tạng - Lời giới thiệu
- 581 - Pháp đơn giản
- 582 - Đức Phật - Bậc thức tỉnh cho nhân thế
- 583 - Tứ đại trọng ân trong Phật giáo
- 584 - Mục đích cuối cùng của sự tu học là chấm dứt tái sinh
- 585 - Hạnh phúc là buông xả?
- 586 - Tư tưởng Trung đạo qua Bát bất
- 587 - Niệm Phật chớ sợ cười, đừng chờ hẹn
- 588 - Soi gương Chánh pháp
- 589 - Công đức chiêm bái Phật tích
- 590 - Không có kẻ chiến bại
- 591 - Thực hành pháp và tuỳ pháp
- 592 - Bảy pháp làm cho Chánh pháp tăng trưởng
- 593 - Im lặng như pháp
- 594 - Người ngu nghĩ là ngọt
- 595 - Như Lai thọ lượng
- 596 - Bảy pháp cung kính làm cho Chánh pháp tăng trưởng
- 597 - Ra mắt Ban Biên tập và ấn hành Thánh điển Phật giáo VN
- 598 - Tam pháp ấn và sự diệt khổ
- 599 - Thư thỉnh mời viết bài kỷ yếu Trưởng lão Hoà thượng Thích Phước Sơn
- 600 - Giáo pháp như chiếc bè qua sông
- 601 - Nimitta trong Thanh tịnh đạo
- 602 - Một tâm thanh tịnh
- 603 - Giá trị phổ quát của thiền & thuyết nghiệp của đạo Phật
- 604 - Phật huệ, Phật đức, Phật lực hằng hữu miên viễn
- 605 - Pháp thân của chư Phật
- 606 - Phàm tăng & Thánh tăng
- 607 - Phật dạy: Nhìn nước để thấy người
- 608 - Bốn hạng người đáng thân cận
- 609 - Độ nhất thiết khổ ách
- 610 - Một số lời dạy của Đức Phật về Hiếu Hạnh
- 611 - Báo hiếu trong hành vi tôn giáo của Phật tử
- 612 - Vì sao Đức Phật dạy ân đức cha mẹ thật khó báo đền?
- 613 - Trầm tư về đạo hiếu
- 614 - Chữ Hiếu cũng cần vun đắp
- 615 - Phật dạy: Hãy cúng dường cha mẹ
- 616 - Định lượng chữ Hiếu
- 617 - TP. HCM: Họp Ban Biên tập và Ấn hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 618 - Kính thuận với cha mẹ
- 619 - Đạo nghĩa thầy trò
- 620 - Sống theo lời Phật: Mạng sống vô thường
- 621 - Ý dẫn đầu các pháp
- 622 - Phật dạy pháp "trừ sầu lo"
- 623 - Lời Phật dạy cách đối mặt với kẻ tiểu nhân
- 624 - Lược sử Trúc Lâm Tam tổ
- 625 - Niềm tin vào Tam bảo và lòng tự tín của người Phật tử
- 626 - Biết lắng nghe pháp
- 627 - Mối tương quan giữa Đức Phật và thiên nhiên
- 628 - Hưởng thụ lạc bị Như Lai chê trách
- 629 - Pháp sanh diệt
- 630 - Sắp ra mắt ấn bản kinh Trường bộ & Trung bộ
- 631 - Biển cả và Phật pháp
- 632 - Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ra mắt ấn phẩm Kinh Trường Bộ và Kinh Trung Bộ
- 633 - Phóng sự: Ý Nghĩa Tam Tạng Thánh Điển Phật Giáo Việt Nam
- 634 - An Viên Focus: Hành trình Tam tạng Thánh Điển Phật giáo
- 635 - Viện Nghiên cứu Phật Học Việt Nam
- 636 - Cách đối trị sợ hãi theo quan điểm Phật giáo
- 637 - Kế hoạch phối hợp tổ chức hội thảo khoa học toàn quốc về " Phát huy vai trò Tăng, Ni Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc"
- 638 - Thư mời viết bài tham luận
- 639 - Lời Phật dạy: Hãy nhớ tinh tấn, chớ có lười biếng
- 640 - Khuyến khích tu pháp sai mắc tội vô lượng
- 641 - Suy tư & nhận biết
- 642 - Hà Nội: Nữ giới Phật giáo với lĩnh vực báo chí
- 643 - Biết pháp, biết nghĩa, biết thời
- 644 - Biết tiết độ, biết mình, biết hội chúng
- 645 - Thoát khỏi sợ hãi
- 646 - Biết sự hơn kém của người
- 647 - Tu tập cũng như giữ thành
- 648 - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tổng kết Phật sự 2020
- 649 - Mê tín hay không mê tín?
- 650 - Xuân trong cửa Thiền
- 651 - Thư chúc Tết xuân Tân Sửu của Đức Pháp chủ
- 652 - Hạnh phúc của người tu
- 653 - Đắm say trong dục vui ít khổ nhiều
- 654 - Ngón tay chỉ mặt trăng: Thông điệp kinh Lăng-già
- 655 - Cầu nguyện qua cái nhìn Duyên khởi
- 656 - Nói như hoa như mật
- 657 - Thư mời viết bài tham luận cho hội thảo quốc gia "Giáo hội Phật giáo Việt nam: sự hình thành và phát triển"
- 658 - Thông báo về việc phát hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 659 - Thông bạch v/v Ấn hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 660 - Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Lời chứng minh
- 661 - Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Lời giới thiệu
- 662 - Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Lời nói đầu
- 663 - Giáo hoá bình đẳng
- 664 - Đôi điều về học giới luật Phật giáo
- 665 - Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Phước Sơn (1938-2020)
- 666 - Thông bạch v/v Cúng dường Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 667 - DẪN LUẬN KINH TRƯỜNG BỘ
- 668 - DẪN LUẬN KINH TRUNG BỘ
- 669 - DẪN LUẬN KINH TƯƠNG ƯNG BỘ
- 670 - DẪN LUẬN KINH TĂNG CHI BỘ
- 671 - Ích lợi của việc sám hối
- 672 - Trị liệu bệnh khổ
- 673 - "Công ơn cha mẹ" theo lời Phật dạy
- 674 - Thiểu dục và tri túc trong kinh Di giáo
- 675 - Thành tựu chánh kiến
- 676 - Phật dạy:Nên nói cái gì và im lặng thế nào?
- 677 - Đã gieo trồng thiện căn dẫu chết cũng không sợ
- 678 - Nếu có 5 đức tính này thì người tu ở đâu cũng được thương kính
- 679 - Hướng đến thống nhất tổng mục lục cho Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam
- 680 - Khai mạc hội thảo online "Giáo hội Phật giáo Việt Nam: 40 năm hội nhập và phát triển cùng đất nước"
- 681 - Ban Thường trực Ban Biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam họp với Trung tâm Pāli học
- 682 - Thiền Đại thừa và Tối thượng thừa
- 683 - Giữ giới như giữ rễ cho cây
- 684 - Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh khánh tuế Hòa thượng Thích Giác Toàn
- 685 - Để tâm giải thoát được thuần thục
- 686 - Viện Nghiên cứu Phật học VN chúc Tết Trưởng lão Hòa thượng Quyền Pháp chủ GHPGVN
- 687 - Viện Nghiên cứu Phật học VN sẽ tổ chức nhiều hội thảo trong năm 2022
- 688 - Sự mầu nhiệm của lòng biết ơn
- 689 - Viện Nghiên cứu Phật học VN tổ chức tổng kết nhiệm kỳ vào cuối tháng 10-2022
- 690 - Hòa thượng Thích Giác Toàn: "Thực hiện Đại tạng kinh là sứ mệnh xuyên suốt của Giáo hội”
- 691 - Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Phật học VN dâng hương tưởng niệm Hòa thượng Thích Minh Cảnh
A. Kết cấu toàn thể của giáo nghĩa Chân tông: Giáo, Hành, Tín, Chứng
Tịnh độ Chân tông vốn là Tịnh độ giáo đối ứng với “Các giáo thuộc Thánh đạo”, thật ra là chỉ cho Tịnh độ tông của Ngài Nguyên Không (1133-1212). Về sau nó được dùng chỉ riêng cho tông phái Tịnh độ do Ngài Thân Loan sáng lập. Tịnh độ Chân tông Nhật Bản thường được gọi tắt là Chân tông, nhân vì đề xướng “Chỉ nhất hướng chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ”, trên lịch sử cũng đã từng được gọi là Nhất Hướng Tông. Do vì Ngài Thân Loan gọi tín đồ là “Ngự môn đồ chúng” nên cũng gọi là Môn Đồ tông. Đến thời cận đại (1872) mới chính thức gọi là Tịnh độ Chân tông.
Trong tác phẩm “Giáo Hành Tín Chứng”, Ngài Thân Loan từ bốn phương diện Giáo, Hành, Tín, Chứng đã kiến lập hệ thống giáo nghĩa của Tịnh độ Chân tông.
Giáo
Tức là giáo pháp, thực ra là chỉ kinh điển chủ yếu dùng để y cứ, cho rằng chỉ có Kinh Vô Lượng Thọ (gọi tắt là Đại Kinh) mới là giáo chân thật của Phật, nghĩa là: “Đức Phật Thích Ca xuất hiện ở thế gian tuyên dương giáo pháp cứu vớt quần sinh, là tông thú của kinh, tức là lấy danh hiệu Phật làm tông chỉ của kinh” (quyển 1). “Bản nguyện Như Lai” nói ở đây tức là nguyện thứ 18 trong 48 lời nguyện của Phật A Di Đà trước khi thành Phật. Nguyện thứ 18: “Nếu tôi thành Phật, chúng sinh ở khắp mười phương chí tâm tin ưa muốn sinh về nước tôi, thậm chí mười niệm, nếu chẳng được sinh thì tôi không thành Chánh giác”. Nguyện này được gọi tắt là “Nguyện niệm Phật vãng sinh”. Trong tác phẩm Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập, Ngài Nguyên Không luận chứng nguyện này là “vãng sinh bản nguyện”. Nói “niệm Phật” tức là niệm danh hiệu “Nam mô A Di Đà Phật”. Ngài Thân Loan cho đây là tông chỉ của kinh này.
Ngài Không Nguyên lấy “ba kinh, một luận”(1) làm kinh điển y cứ chính. Ngài Thân Loan tuy kế thừa quan điểm “Niệm Phật vãng sinh bản nguyện” của Ngài Nguyên Không đối với Di Đà, nhưng chỉ lấy Kinh Vô Lượng Thọ làm kinh điển y cứ chính, ở dưới tên kinh này đặc biệt ghi chú “Giáo pháp chân thật, Tịnh độ Chân tông”.
Hành
Tức là tu hành, thực ra là chỉ cho nội dung tu hành, tức xưng niệm danh hiệu “Nam mô A Di Đà Phật”. Ngài Thân Loan nói: “Xưng danh hiệu Vô Ngại Quang Như Lai (tức A Di Đà Phật). Hạnh này nhiếp hết thảy các thiện pháp, đủ các cội gốc công đức, rất mau viên mãn công đức nhất thật chân như quý báu mênh mông như biển cả, nên gọi là đại hạnh” (quyển 2). Xưng danh niệm Phật là căn cứ vào điều nguyện thứ 17 trong Kinh Vô Lượng Thọ: “Lúc tôi thành Phật, vô lượng chư Phật ở thế giới khắp mười phương nếu chẳng ngợi khen danh hiệu của tôi thì tôi không ở ngôi Chánh giác”. Ngài Thân Loan gọi nguyện này là “nguyện chư Phật xưng dương”, “nguyện chư Phật ngợi khen”, “nguyện tuyển trạch xưng danh”.
Chúng sinh niệm danh hiệu Phật có thể đoạn trừ tất cả vô minh và sinh tử phiền não, thỏa mãn tất cả nguyện vọng. “Xưng danh là chánh nghiệp tối thắng tối diệu. Chánh nghiệp đó là niệm Phật”, “Một niệm tức là một tiếng, một tiếng tức là một niệm, một niệm tức là một hạnh, một hạnh tức là chánh hạnh, chánh hạnh tức là chánh nghiệp, chánh nghiệp tức là chánh niệm, chánh niệm tức là niệm Phật, là Nam mô A Di Đà Phật” (quyển 2). Đây là lấy miệng xưng cùng tâm niệm đồng thời khởi, dù chỉ trong tâm tưởng đến danh hiệu Di Đà cũng kể là niệm Phật.
Trong Tịnh Độ Văn Loại Tụ Sao giảng càng rõ hơn: “Một tiếng tức là xưng niệm, xưng niệm tức là ức niệm, ức niệm tức là chánh niệm, chánh niệm tức là chánh nghiệp”. Do Phật A Di Đà có bản nguyện nhiếp thủ tất cả chúng sinh niệm Phật vãng sinh Tịnh độ Cực lạc, cho nên “Thánh nhân lớn nhỏ, người ác nặng nhẹ” đều có thể nhờ “sức bản nguyện” của Phật mà thông qua niệm Phật vãng sinh Tịnh độ, “niệm Phật thành Phật”. Ngài nói: “Tha lực là nguyện lực của Như Lai” (quyển 2).
Tự giải tự ngộ, tự tu công đức đều là “tự lực”, Ngài cho rằng thời đại mạt pháp phải nhờ vào tha lực của Phật Di Đà mới có thể vãng sinh giải thoát. Điều này tuy là chủ trương nhất quán của Tịnh độ giáo, nhưng Ngài Thân Loan càng nhấn mạnh đến tín tâm tuyệt đối vào tha lực của bản nguyện A Di Đà. Trên cơ sở đầy đủ tín tâm này lại tu chánh niệm, chánh hạnh niệm Phật thì nhất định được vãng sinh, thành Phật, đó là “chóng đến cõi nước quang minh vô lượng, chứng đại bát Niết bàn” (quyển 2).
Tín
Là chỉ cho tín tâm tuyệt đối với điều nguyện thứ 18 (Vãng sinh bản nguyện) của Phật A Di Đà trong Kinh Vô Lượng Thọ. Điều nguyện này của Phật A Di Đà là “tuyển trạch bản nguyện”, cũng gọi là “nguyện chí tâm tín nhạo”, “nguyện vãng tướng tín tâm”, đây là một điều nguyện quan trọng nhất trong 48 lời nguyện của Phật A Di Đà. Tin Phật một cách chí thành vô hạn, vui mừng phát nguyện sinh về Tịnh độ Cực lạc ở Tây Phương, tín tâm này tương thông với bản nguyện của Phật A Di Đà, nhờ đó có thể nhờ vào tha lực của Phật mà vãng sinh Tịnh độ, chứng đại Niết bàn.
Vì thế, gọi tín tâm này là “đại tín tâm”, là “phương thuốc trường sinh bất lão”, là “nghệ thuật xảo diệu hân tịnh yếm uế”, là “trực tâm tuyển trạch hồi hướng”, là “tín nhạo lợi tha sâu rộng”, là “chân tâm kim cương bất hoại”, là “tịnh tín dễ vãng sinh mà không có người tu”…, là “con đường tắt thế gian khó tin”, là “nhân chân chánh chứng đại bát Niết bàn” (quyển 3).
Về quan hệ Tín và Hành, Ngài nói: “Tín tâm chân thật ắt có đủ danh hiệu, danh hiệu chưa chắc có đủ tín tâm vào nguyện lực” (quyển 3), ý nói có tín tâm đối với Tịnh độ và nguyện lực của Phật A Di Đà thì cũng là có đủ hạnh xưng niệm danh hiệu A Di Đà. Nhưng chỉ niệm danh hiệu, không nhất định là có tín tâm này. Vả lại, tu hạnh xưng danh niệm Phật chỉ là một cách sinh ra tín tâm, thông qua xưng niệm danh hiệu có thể sinh ra tín tâm tuyệt đối đối với nguyện lực của Phật A Di Đà.
Ngài Thân Loan dẫn Kinh Vô Lượng Thọ: “Các chúng sinh nghe danh hiệu Phật A Di Đà tín tâm hoan hỷ”. Giải thích: “Chúng sinh nghe bản nguyện của Phật sinh khởi lòng tin trước sau không nghi, ấy gọi là nghe. Tín tâm nghĩa là tín tâm hồi hướng bản nguyện lực” (quyển 3). Đây là do nghe nói đến nguyên nhân Phật A Di Đà phát nguyện thì sẽ tin sâu chẳng nghi đối với “bản nguyện lực” của Phật A Di Đà, nhờ đó mà có đủ tín tâm đối với tha lực Di Đà. Ngài cho rằng cái nhân vãng sinh Tịnh độ không phải là hạnh xưng niệm danh hiệu Phật mà chính là tín tâm, là tín cho nên nói: “Tín tâm là không hai tâm, nên nói là nhất niệm, cũng gọi là nhất tâm, nhất tâm là nhân chân thật của báo độ thanh tịnh”.
"Một niệm vãng sinh tức là chuyên tâm. Chuyên tâm tức là thâm tâm. Thâm tâm tức là thâm tín. Thâm tín tức là kiên cố thâm tín. Kiên cố thâm tín tức là quyết định tâm. Quyết định tâm tức là vô thượng tâm. Vô thượng tâm tức là chân tâm. Chân tâm tức là tương tục tâm. Tương tục tâm tức là thuần tâm. Thuần tâm tức là ức niệm. Ức niệm tức là chân thật nhất tâm. Chân thật nhất tâm tức là đại khánh hỷ tâm. Đại khánh hỷ tâm tức là chân thật tín tâm. Chân thật tín tâm tức là kim cương tâm. Kim cương tâm tức là tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện làm Phật tức là tâm độ chúng sinh. Tâm độ chúng sinh tức là tâm nhiếp thủ chúng sinh sinh về Tịnh độ An lạc. Tâm này tức tâm đại Bồ đề. Tâm này là tâm đại từ bi. Tâm này do trí huệ quang minh vô lượng sinh, cho nên nguyện hải bình đẳng. Nguyện hải bình đẳng nên phát tâm bình đẳng. Phát tâm bình đẳng nên đạo bình đẳng. Đạo bình đẳng nên đại từ bi bình đẳng. Đại từ bi bình đẳng là chánh nhân thành Phật” (quyển 3).
Một niệm muốn vãng sinh Tịnh độ Di Đà chính là “chân thật tín tâm” của sự vãng sinh, chính là “tâm nguyện làm Phật”…, là “chánh nhân thành Phật”. Một niệm có tính quyết định tức là “nhất niệm tịnh tín”, là nguyên nhân căn bản của sự vãng sinh và thành Phật. Về sau, trong nội bộ Chân tông gọi đó là “tín tâm là gốc”.
Ngài Thân Loan còn chủ trương, sau khi một người đã xây dựng được tín tâm đối với nguyện lực Di Đà vẫn phải xưng niệm danh hiệu Di Đà. Sự xưng niệm này tuy chẳng phải là chánh nhân đưa đến vãng sinh Tịnh độ, nhưng là biểu thị sự báo đáp ân Phật, nên Ngài nói: “Cần phải thường xuyên xưng niệm danh hiệu Như Lai để báo đáp ân từ bi hoằng thệ của Phật A Di Đà” (quyển 2).
Chứng
Tức là kết quả tu hành, là cảnh giới đạt đến. Ngài nói, bất cứ người nào “không phân biệt sang hèn, tăng tục, nam nữ, già trẻ, không luận tạo tội nhiều ít, tu hành bao lâu” (quyển 3), chỉ cần có đủ tín tâm tuyệt đối với Tịnh độ và nguyện lực của Phật A Di Đà, sau khi chết liền được “nhập vào hàng ngũ Đại thừa chánh định tụ (tức là đạt đến địa vị Bất thoái chuyển của Bồ Tát). Vì trụ chánh định tụ ắt đến diệt độ. Ắt đến diệt độ tức là thường lạc. Thường lạc tức là tất cánh tịch diệt. Tịch diệt tức vô thượng Niết bàn. Vô thượng Niết bàn tức pháp thân vô vi (quyển 4). Tịnh độ An lạc là “Vô lượng quang minh độ”, “chân báo Phật độ” (quyển 5). Vãng sinh Tịnh độ tức là đạt đến triệt để giải thoát thành Phật. Ngài Thân Loan minh xác chủ trương vãng sinh tức là thành Phật.
Ngài Thân Loan cho rằng Kinh Quán Vô Lượng Thọ (Quán Kinh, Ngài gọi là “Yếu môn”) và Kinh A Di Đà (Tiểu Kinh, Ngài gọi là “Chân môn”) đều là Tịnh độ giáo thuộc “phương tiện”, “tự lực giả môn”. Chỉ có Kinh Vô Lượng Thọ mới là giáo chân thật tuyên thuyết bản nguyện tha lực Di Đà. Nhưng Ngài lại nói: “Ba kinh đều do đức Phật Thích Ca tự thuyết”, “đều lấy kim cương tâm, chân tâm làm trọng yếu. Chân tâm tức là đại tín tâm”, “đại cương của ba kinh này tuy có nghĩa hiển bày và nghĩa ẩn mật, nhưng cũng đều nói tín tâm là động cơ thể nhập” (quyển 6). Ba kinh đều nhất trí khuyên chúng sinh niệm Phật và đều dạy dùng tín tâm để vãng sinh Tịnh độ. Vì thế dù đối với Quán Kinh hay Tiểu Kinh cũng cần phải thấu qua văn tự mà nhận thức chân ý ẩn tàng trong đó để kiến lập tín tâm tuyệt đối với nguyện lực Di Đà.
Năm 1255, Ngài Thân Loan, sau khi trở về kinh đô, trứ tác Ngu Ngốc Sao 2 quyển, Trong tác phẩm này, ngài đề xuất lý luận phán giáo của mình, tức là phân loại bình luận toàn bộ Phật pháp. Ngài đem Phật pháp chia thành hai giáo: Đại thừa và Tiểu thừa. Lại chia Đại thừa làm Nan hành đạo (tức là tự lực Thánh đạo môn) và Dị hành đạo (tức là tha lực Tịnh độ môn). Tự lực Thánh đạo môn được chia làm Tiệm giáo và Đốn giáo, Ngài lại dùng các từ vựng “Thụ”, “Hoành”, “Thụ xuất”, "Thụ siêu”, “Hoành xuất”, “Hoành siêu” để tiến hành bình luận về toàn bộ Phật pháp.
- Thụ là chỉ cho trình tự tu hành trước sau cạn sâu.
- Hoành là không có trình tự thứ lớp.
- Xuất là xuất ly tam giới đạt đến giải thoát.
- Siêu là đạt ngay đến cảnh giới giác ngộ tối cao.
Ngài Thân Loan dùng “Thụ” đại biểu cho Thánh đạo môn, dùng “Hoành” đại biểu cho Tịnh độ môn.
“Thụ xuất” là chỉ cho tiệm giáo trong Thánh đạo môn như Pháp Tướng tông… chủ trương “quyền giáo” phải trải qua nhiều kiếp tu hành.
“Thụ siêu” là chỉ cho đốn giáo trong Thánh đạo môn như Hoa Nghiêm tông, Thiên Thai tông, Thiền tông … chủ trương “thật giáo” ngay nơi thân này là Phật, ngay thân này thành Phật.
“Hoành xuất” là “tự lực phương tiện giả môn” trong tha lực Tịnh độ môn, chỉ cho giáo pháp nói phải tu thiện công đức và chín phẩm vãng sinh trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ.
“Hoành siêu” là giáo pháp chân thật của “tuyển trạch bản nguyện” trong tha lực Tịnh độ môn, tức là giáo pháp nói về vãng sinh báo độ trong Kinh Vô Lượng Thọ.
“Hoành xuất” là tiệm giáo trong Tịnh độ môn. “Hoành siêu” là đốn giáo trong Tịnh độ môn. Sự phán giáo này đề cao địa vị Kinh Vô Lượng Thọ và luận thuyết của Ngài Thân Loan về tín tâm tuyệt đối đối với tha lực Di Đà là giáo thuyết căn bản của việc vãng sinh thành Phật.
B. Tín tâm là gốc và vãng sinh thành Phật siêu việt thiện ác
Lý luận thiện ác báo ứng rất phổ biến trong truyền thống Phật giáo, cũng như giáo nghĩa có ảnh hưởng rất lớn trong dân gian. Theo lý luận này, người hành thiện tích đức đời sau sẽ được báo ứng tốt đẹp (sinh lên trời hoặc sinh vào nhà giàu sang ở nhân gian), kẻ làm ác tạo tội bị báo ứng xấu (sinh làm súc sinh hoặc đọa địa ngục…). Trong điều kiện lịch sử đương thời, lý luận này kết hợp với luân lý của xã hội đưa đến tác dụng thưởng thiện phạt ác. Tại nội bộ Phật giáo, lý luận thiện ác báo ứng là giáo nghĩa thuộc tầng bậc thấp hướng đến số đông tín đồ bình dân.
Ngoài ra, mỗi tông phái Tiểu thừa hoặc Đại thừa còn có một hệ thống giáo nghĩa tu hành giải thoát mang tính triết học tư biện ở tầng bậc sâu hơn. Tịnh độ tông đem các giáo phái và giáo nghĩa của Phật giáo trước đó gọi chung là Thánh đạo môn “tự lực”, “nan hành”, đề cao vai trò của “chuyên tu niệm Phật” vãng sinh Tịnh độ (giải thoát). Điều này tuy phủ định đối với các luận điểm sự tu hành giải thoát của Phật giáo trước kia và thiện ác báo ứng, nhưng vẫn chủ trương niệm Phật tiêu tội như đã nói: “Xưng niệm một tiếng Phật liền trừ năm trăm vạn kiếp tội”. Tịnh độ Chân tông lại tiến thêm một bước cho rằng vãng sinh (tức thành Phật) không có quan hệ gì đến hành vi thiện ác, mà do tín tâm đối với nguyện lực Di Đà quyết định, nên cho rằng niệm Phật tiêu tội thuộc về “tự lực” và phủ định nó.
Tư tưởng của Thân Loan cho rằng tín tâm tuyệt đối đối với bản nguyện Di Đà là “nội nhân”, là “chân nhân”, là “chánh nhân” vãng sinh thành Phật. Vãng sinh thành Phật đã do tín tâm quyết định vậy thì không quan hệ gì đến thiện ác của cá nhân.
Ngài Thân Loan nói: “Bản nguyện Di Đà không phân biệt người già, trẻ, kẻ thiện, ác. Phải biết tín tâm là cội gốc. Mục đích của bản nguyện Di Đà là cứu vớt chúng sinh tội ác sâu nặng, phiền não lẫy lừng. Nếu như tin bản nguyện Phật thì không cần thiện hạnh khác. Không có thiện hạnh nào hơn niệm Phật. Chẳng cần sợ ác hạnh, vì nó không ngăn ngại được bản nguyện Di Đà, làm trở ngại chúng sinh ác hạnh vãng sinh” (Thán Dị Sao). “Người phát được nhất niệm hỷ ái tâm (tức là tâm niệm nguyện vãng sinh Tịnh độ) chẳng đoạn phiền não mà đắc Niết bàn”. (Giáo Hành Tín Chứng, quyển 2). “Bất luận người chết dù thiện hay ác, hễ có tín tâm quyết định thì người ấy ắt trụ chánh định tụ” (nghĩa là trụ Bất thoái chuyển, Ngài Thân Loan giải là “tương đương với Phật vị”) (Mạt Đăng Sao).
Ngài Thân Loan chủ trương tín tâm vãng sinh, nói cho cùng cũng là do Di Đà ban cho, vì tương thông với bản nguyện Di Đà nên có sức bất tư nghì. Người có đủ tín tâm này, sau khi chết thần thức có thể “hoành siêu ngũ thú, bát nạn”, “tức thì nhập vào hàng ngũ Đại thừa chánh định tụ”, tức là vãng sinh thành Phật. Tín tâm này cũng một loại với bản nguyện Di Đà đã siêu việt thiện ác, chính tà của xã hội thế gian. Niệm Phật được xây dựng trên cơ sở tín tâm này là “phi thiện, phi ác, phi đốn, phi tiệm, phi định, phi tán, phi chánh quán, phi tà quán, phi hữu niệm, phi vô niệm, phi bình thường, phi lâm chung, phi đa niệm, phi nhất niệm, chỉ là niềm tin chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể lường, chẳng thể nói”. (Giáo Hành Tín Chứng, quyển 3). “Niệm Phật lấy vô nghĩa làm nghĩa, chẳng thể lường, chẳng thể nói, chẳng thể nghĩ bàn” (Thán Dị Sao).
Ngài Thân Loan có lúc gọi pháp niệm Phật vãng sinh tin tuyệt đối vào tha lực này là “tự nhiên pháp nhĩ” (Mạt Đăng Sao). Mục đích của giáo thuyết này là để củng cố vững vàng lòng tin của chúng ta đối với Phật A Di Đà cùng bản nguyện Tịnh độ của Ngài, mà không cần phải lo nghĩ đến dĩ vãng của mình và các hành vi thiện ác từ nay về sau. Ngài Thân Loan thậm chí còn nói: “Hành giả có đủ tín tâm thì thiên thần địa kỳ kính phục, ma giới ngoại đạo chẳng thể chướng ngại, tuy có tội ác cũng chẳng thể thọ nghiệp báo”, “dẫu giết vạn người cũng có thể vãng sinh” (Thán Dị Sao).
Cho rằng hành vi thiện ác là do nghiệp đời trước quyết định, làm thiện không trợ giúp cho việc vãng sinh, làm ác cũng không chướng ngại vãng sinh. Theo các tài liệu để lại ([1]) có một số tín đồ căn cứ vào lời nói này rồi “chuyên ỷ lại bản nguyện”, tuyên truyền “tạo ác vô ngại”. Ngài Thân Loan phản đối bọn người này, và Ngài nói, làm ác sẽ làm chướng ngại người khác niệm Phật, sẽ bị luật pháp của Nhà nước trừng trị và người đời phản đối, còn đối với Chân tông thì “như trùng trên thân sư tử trở lại ăn thịt sư tử”.
Ngài Thân Loan chú trọng vào tín ngưỡng tuyệt đối với tha lực bản nguyện Di Đà, nên xếp pháp tu “niệm Phật tiêu tội” vào loại tu hành “tự lực”, cũng là biểu thị sự phản đối của Thân Loan đối với quan điểm “niệm một tiếng Phật tiêu tán mười ức kiếp tội nặng”. Ngài cho rằng quan điểm này không làm cho chúng ta kiến lập được tín tâm vãng sinh, nên vẫn thuộc về tin “tâm của tự lực”, chứ “chẳng phải tín tâm của tha lực”. Ngài nói nếu như tin ở bản nguyện “nhiếp thủ chẳng bỏ” của Di Đà, thì dù cho “phạm nhiều tội nghiệp lúc lâm chung không niệm Phật cũng có thể cấp tốc vãng sinh”. Ngài còn nói, người đã có tín tâm đối với bản nguyện Di Đà “một đời niệm Phật chỉ vì báo ân Như Lai, cảm tạ ân đức Như Lai”. Từ quan điểm này, chúng ta có thể thấy sự khác biệt của Chân tông và Tịnh độ tông của Ngài Nguyên Không chủ trương “niệm Phật càng nhiều càng tốt”.
C. Kẻ ác là đối tượng chính của pháp môn này
Không luận là Tịnh độ tông Trung Quốc hay Nhật Bản đều nhấn mạnh “kẻ ác” có thể thông qua niệm Phật mà sau khi chết vãng sinh Tịnh độ. Trong giáo thuyết của Phật giáo có thập thiện tương đương với các nguyên tắc luân lý thế gian, đó là: “chẳng sát sinh, chẳng tà dâm, chẳng trộm cắp, chẳng nói dối, chẳng nói lời chia rẽ, chẳng nói lời thô ác chửi rủa, chẳng nói lời ngọt ngào dụ dỗ người khác, chẳng tham dục, chẳng giận hờn, chẳng tà kiến” (không tin nhân quả và các lời Phật dạy khác), trái ngược với mười điều vừa kể trên là thập ác.
Người nào làm thập thiện được gọi là “người thiện”, kẻ nào vi phạm bị gọi là “kẻ ác”. Mức độ vi phạm thập thiện bất đồng nên mức độ làm ác của kẻ ác cũng khác, tội ác nặng nhất là kẻ ác phạm tội “ngũ nghịch”, tức là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, hại Phật, phá hoại Tăng đoàn. Kẻ mà Tịnh độ tông gọi là “phàm phu tội ác sinh tử”, “nhất thiết phàm phu tạo tội” là chỉ chung cho kẻ phạm tội thập ác, ngũ nghịch, cũng gọi là “kẻ ác”. Cũng có lúc gọi riêng kẻ phạm tội ngũ nghịch là “người mang tội nặng ngũ nghịch”, “kẻ cực ác thấp hèn nhất”.
Tịnh độ tông chủ trương tất cả kẻ ác phạm tội nặng nhẹ đều có thể thông qua niệm Phật mà diệt tội vãng sinh Tịnh độ (Xem Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập). Tịnh độ tông nói “kẻ ác”, “phàm phu tội ác” thực tế là chỉ cho những hạng người trong các tầng lớp xã hội như nông dân, ngư dân, thợ săn, võ sĩ cho đến cả giai cấp thống trị. Những hạng người này là đối tượng của Tịnh độ tông.
So với Tịnh độ tông, Tịnh độ Chân tông càng xem trọng truyền giáo trong quảng đại quần chúng ở hạ tầng, lấy tất cả “phàm phu”, “kẻ ác” làm đối tượng tranh thủ. Về phương diện này, thuyết “ác nhân chánh cơ” của Thân Loan rất đặc sắc. Trong Thán Dị Sao, Ngài Thân Loan nói: “Người thiện còn có thể vãng sinh hà huống kẻ ác!”. Nhưng người đời thường nói: Kẻ ác còn có thể vãng sinh hà huống người thiện. Lời nói này tuy thấy dường như hữu lý, nhưng ý thì trái với tha lực bản nguyện.
Bởi vì người tự lực làm thiện, không có tâm nương nhờ vào tha lực, chẳng phải được nguyện lực Di Đà nhiếp thủ, nhưng nếu như đột nhiên người ấy hiểu ra và bỏ tâm tự lực mà nương nhờ vào tha lực bản nguyện Di Đà thì chắc chắn vãng sinh về báo độ chân thật. Chúng ta có đủ thứ phiền não, tu hành cỡ nào cũng đều chẳng thể thoát ly sinh tử. Di Đà xót thương, bản ý phát nguyện rộng lớn của Ngài chính vì khiến kẻ ác thành Phật. Như vậy, kẻ ác tin tưởng dựa vào tha lực vốn là chánh nhân vãng sinh, cho nên nói “người thiện còn có thể vãng sinh hà huống kẻ ác”.
Trong Khẩu Truyền Sao quyển hạ của Giáo Như (1270-1351) có dẫn lời của Như Tín (1239-1300) giải thích câu: “Người thiện còn có thể vãng sinh hà huống kẻ ác” như sau: “Phàm phu ác là chính, phàm phu thiện là phụ. Phàm phu thiện thuộc đối tượng phụ còn có thể vãng sinh thì phàm phu ác thuộc đối tượng chính há chẳng thể vãng sinh ư? Cho nên nói: Người thiện còn có thể vãng sinh hà huống kẻ ác”.
Những điều trích dẫn trên có mấy tầng ý nghĩa như sau:
- Chân tông chủ trương “tín tâm là gốc”, hễ có tín tâm đối với tha lực bản nguyện Di Đà tất nhiên có thể vãng sinh thành Phật, bất luận là người có tín tâm ấy là người thiện hay kẻ ác.
- Người thiện do vì tự ỷ lại hành thiện, chứa nhóm công đức, cho rằng có thể dựa vào chính mình tu hành đạt đến giải thoát mà chẳng tin vào bản nguyện tha lực Di Đà (không có tâm nương nhờ tha lực), nên chẳng phải là đối tượng của Phật Di Đà phát nguyện cứu độ. Nếu như người ấy thay đổi, trở lại tin tha lực bản nguyện Di Đà thì cũng có thể vãng sinh thành Phật.
- Kẻ ác không thể dựa vào tự lực tu hành đạt đến giải thoát, duy có lòng tin chân thật và nương nhờ vào tha lực bản nguyện Di Đà, kẻ ấy mới có thể giải thoát, vì thế nên kẻ ác mới là đối tượng mà Phật Di Đà phát nguyện cần phải cứu độ.
- Do vì kẻ ác là đối tượng chính của việc vãng sinh, còn người thiện là đối tượng phụ, vì là người phụ thuộc, nên người thiện nếu có thể vãng sinh thì kẻ ác càng có thể vãng sinh.
Ý nghĩa của quan điểm lấy kẻ ác làm đối tượng chính vãng sinh là: Tịnh độ Chân tông lấy quần chúng bình dân trong xã hội bao quát nông dân, ngư dân, thợ săn, cho đến lái buôn, võ sĩ làm đối tượng, những người này trong hoạt động sản xuất nuôi, trồng, săn bắn, không thể không làm tổn thương hoặc giết hại sinh linh, vả lại đại đa số những người nghèo khổ, không có văn hóa, không có điều kiện bố thí tiền của, cất chùa, dựng tháp …, hoặc không có năng lực, không có thời gian hành thiện tu hành, theo quan điểm của truyền thống Phật giáo thì phần đông họ là “kẻ ác”.
Ngài Thân Loan đặt mình vào hàng ngũ “kẻ ác”, Ngài thường tự xưng “ngu ngốc”, “cấu chướng phàm ngu”, “người mang đủ thứ phiền não”, “tội nhân” … Đây là cách Ngài tiếp cận dân chúng, cũng làm cho giáo thuyết của Ngài dễ dàng được dân chúng tiếp nhận. Ngài cũng đã từng nói với các đệ tử: Các nghề nghiệp người đời làm “ở sông biển thì giăng lưới thả câu, ở núi rừng thì săn bắn chim thú để tự nuôi sống hoặc buôn bán, làm ruộng để sinh nhai” đều là do nghiệp nhân đời trước quyết định. Các hành vi thiện ác của chúng ta đều do túc nghiệp (nghiệp nhân đời trước) quyết định, nhưng vãng sinh Tịnh độ thành Phật là do tín tâm đối với nguyện lực Di Đà quyết định. Có tín tâm này thì có thể “Chẳng đoạn phiền não mà thành Phật”.
Ngài phê bình người truyền pháp chủ trương chỉ có người thiện mới có thể niệm Phật vãng sinh, ở tại đạo tràng dán thông cáo không cho một số người làm nghề nghiệp nào đó được vào, Ngài cho đây là “ngoài hiện tướng tinh tấn hiền thiện mà bên trong giả dối” (Thán Dị Sao). Giáo thuyết của Ngài Thân Loan đem lại hy vọng vãng sinh và thành Phật cho số đông dân chúng ở tầng lớp thấp kém trong xã hội. Phương pháp tu hành lại giản đơn dễ thực hành, cho nên mau chóng có được rất đông tín đồ trong dân chúng tầng lớp dưới như nông dân, ngư dân … quy y.
Tịnh độ tông Trung Quốc và Nhật Bản trước kia, tuy cũng có nói đến kẻ ác có thể vãng sinh giải thoát, nhưng do chịu sự chế ước của nguyên văn kinh điển Tịnh độ tông và quan niệm luân lý truyền thống của xã hội, ảnh hưởng của giáo nghĩa Phật giáo vốn sẵn có, nên vẫn cho rằng người thiện vãng sinh là đối tượng chánh. Trong Quán Niệm Pháp Môn, Ngài Thiện Đạo (613-681) nói: “Tất cả phàm phu tội ác còn nhờ tội diệt mà được vãng sinh, hà huống Thánh nhân (chỉ cho người tu hành đắc đạo hoặc người thiện) nguyện sinh mà không được vãng sinh ư?”.
Ngài Nguyên Không (1133-1212) cũng nói tương tự như thế, Hắc Cốc Thượng Nhân Ngũ Đăng Lục quyển 14 ghi: “Kẻ phạm tội thập ác ngũ nghịch có tín tâm còn được vãng sinh, thì người phạm tội nhẹ do đây suy ra mà biết. Kẻ tội ác còn có thể vãng sinh hà huống người thiện!”.
Các Ngài lấy “Thánh nhân”, “người thiện” là đối tượng chính, làm chủ thể việc vãng sinh, kẻ ác là đối tượng phụ, là phụ thuộc. Do vì trọng điểm truyền giáo của Ngài Thân Loan là quảng đại quần chúng ở hạ tầng xã hội, nên Ngài cải biến quan điểm của các Ngài Thiện Đạo, Nguyên Không, đề xuất thuyết “Kẻ ác là đối tượng chính của việc vãng sinh”. Ngoài ra, dùng giáo nghĩa này để truyền giáo cũng tự nhiên có tác dụng hấp dẫn giai cấp võ sĩ lấy chinh chiến sát phạt làm sự nghiệp.
Tịnh độ Chân tông sau khi sáng lập liền phát triển nhanh chóng, từ thế kỷ 15 về sau trở thành một tông phái lớn mạnh có nhiều tín đồ nông dân. Do đó, trong các sách viết về lịch sử Phật giáo đều xem Tịnh độ Chân tông là một tông phái Phật giáo độc lập.
Trích Nhật Bản Phật Giáo Sử của Dương Tăng Văn
GS.Định Huệ dịch